Thứ Năm, 14 tháng 5, 2020

THIÊN ĐỊA CHÂN THẦN Huyền không đại quái ! Hồi 3 ( Còn Tiếp )


Lưu ý : Các dòng chữ màu vàng , màu tím là những dòng chữ tôi giải rõ ý nghĩa và phản biện lý thuyết của môn phái Huyền không đại quái này 

LIÊN THÀNH PHÁI ( Line nguồn )

PHẦN CƠ BẢN
Mục lục

Chương 1: Cơ sở thiên 
Lão thiếu âm dương 
Tiên hậu thiên âm dương điên đảo
Tiên thiên âm dương biến hoá đại giao cấu 
Huyền không nhị thập tứ sơn phối âm dương
Tam nguyên cửu vận 
Huyền không là hợp ngũ, hợp thập, hợp thập ngũ

Chương 2: Huyền không đại quái
 Nhất: Phụ mẫu thông căn quái
Nhị: Huyền không sơn thượng thông căn cầu thiên quái
Tam: Huyền không thuỷ lí thông căn cầu địa quái


Chương 3: Huyền không tứ đại cục
Chương 4: Nhâm Khôn Ất quyết với các loại ai tinh 
Sơn thượng cửu tinh định cục
Nhị thập tứ sơn triều nghênh thuỷ lộ khởi tham lang thuận nghịch quyết
Tiên thiên mệnh quái bí thuật liên thành cao cấp kỹ trì 
Không vị lưu thần

Chương 5: Đại quái ai tinh với thâu sơn xuất sát 
Nhị thập tứ sơn đại quái ai tinh pháp
Đại quái ngũ hành 
Túc độ ngũ hành 
Sinh nhập khắc nhập quyết
Nhị thập tứ sơn ai tinh thâu sơn xuất sát

Chương 6: Kiêm sơn với kiêm thuỷ
Chương 7: Long sơn tọa hướng 
Long toạ hướng thuỷ chi quan hệ
Phát tú phát khiếu 
Hướng thượng kiến sơn kiến thuỷ quyết 
Tự khố thuỷ tá khố thuỷ quyết
Đắc thì đắc vị quyết
 Đồng tôn thuỷ sổ tiền thuỷ

Chương 8: Thành môn và thành môn ai tinh 
Thành môn 
Thành môn ai tinh

Chương 9: Kinh thiên nhất quyết tối vi cơ


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ THIÊN
Nhất: Lão thiếu âm dương .

.

Càn Đoài là lão dương
Khôn Cấn thuộc lão âm
Khảm Tốn chính thiếu dương
Li Chấn là thiếu âm

Hình AA  Hình này tôi soạn rất công phu , có chứa nhiều đạo lý thú vị trong đó . Bạn nên tải về máy tính mở to ra cho dễ đọc ! ( Hình A trong hình là hình gốc , Hình B , Hình C và khác là tôi san định cho rõ lý )



NHỊ: TIÊN HẬU THIÊN ÂM DƯƠNG ĐIÊN ĐẢO

Càn nhập Khảm - Khôn nhập Li - Khảm nhập Chấn - Li nhập Đoài .
 Cấn nhập Tốn . Đoài nhập Càn . Tốn nhập Cấn . Chấn nhập Khôn

Chẳng qua là hai cái Bát quái tiên thiên xếp xuôi ngược chứ Tiên - Hậu nào vào đây ?
Chơi chữ ngược xuôi đảo lộn . Đem Tiên thiên BQ chuyển ngược , rồi bảo Càn nhập Khảm ( là Càn tiên thiên phía nam chui xuống hậu thiên Khảm phía bắc , các câu khác tương tự )

Đây là nói tiên thiên nhập hậu thiên phương vị: Càn Khôn tiên thiên tương đối, Khôn tiên thiên là Khảm hậu thiên, Càn giao Khôn tiên thiên ở hậu thiên chính là Càn nhập Khảm, Li Khảm tiên thiên tương đối, Khảm tiên thiên là Đoài hậu thiên, Li giao Khảm tiên thiên ở hậu thiên chính là Li nhập Đoài... các quái khác theo đó mà suy ra. Đây là một phần của Thiên Tâm chính vận đồ mà Vô Cực Tử truyền thụ cho Tưởng Đại Hồng.


Tam: Tiên thiên âm dương biến hoá đại giao cấu

Đây là 8 sơn thiên nguyên long chính giao, như Tý giao Ngọ, Ngọ giao Tý, phiên đảo nhau mà giao, là một phần ứng dụng của Tiên hậu thiên điên đảo bên trên, bản chất Đại quái luôn là điên điên đảo, điên đảo cũng chính là 1 trong 4 phép truyền tâm mà người học Đại quái phải hiểu cho bằng được

Đem chín con số của Lạc thư phối với tám quẻ Tiên thiên bát quái , các số đối cung cộng lại thành 10 rồi bảo Thiên nguyên chính phối . Vậy chứ không biết các số Tiên thiên bát quái cơ bản cộng nhau bằng chín tất cả các phương hả ? Chẳng qua là một cách diễn số . Linh thiêng gì ở đây ? 
Đồ hình Tiên - Hậu bát quái căn bản , các số đối cung Tiên thiên bát quái  cộng lại bằng 9 , Các số Hậu thiên bát quái cộng lại bằng 10

Đưa thêm nhiều hình ảnh lấy từ sách Hiệp kỷ biện phương thư ( Để cho các bạn dễ ngộ hơn )




Thiên nguyên chính cấu
Thiên nguyên chính phối (Diên niên, hợp 10)
Tiên thiên chính phối: Càn phối Khôn, Chấn phối Tốn; Khảm phối ly và Cấn phối đoài.
tý cấu ngọ ngọ cấu tý -------------- tiên thiên Càn phối tiên thiên khôn
mão cấu dậu .dậu cấu mão -------------- tiên thiên Ly phối tiên thiên khảm.
càn cấu tốn . tốn cấu càn -------------- tiên thiên Cấn phối tiên thiên đoài
cấn cấu khôn . khôn cấu cấn -------------- tiên thiên Chấn phối tiên thiên Tốn.
Địa Nhân nhị nguyên bàng cấu:

Khác với thiên nguyên, nhân địa nhị nguyên là tử tức nên không chính giao như thiên nguyên mà bàng giao, cách 10 vị giao nhau. Tam nguyên Thiên-Địa-Nhân giao cấu này thực sự là chính pháp của Huyền không đại quái, cội nguồn của nó rất sâu xa, khó mà nói trong vài trang cho rõ được.


  • A/ Đây là lời của giang hồ thuật sĩ thành phần không tốt , có gì đâu mà nói không được ? Thiên nguyên hợp 10 chính là nói cái lý khí của các cung đối nghịch của Tiên thiên luôn đối lập mà cân bằng . Khí tại thời không mọi điểm luôn luôn có thái cực . 

Địa nguyên hợp 5 vì số 5 trung cung là hành thổ là đất vạn vật sinh ra từ đất mẹ . Tử qui về lại đất , hợp 5 sinh thổ phát phúc cho người .
Nhân nguyên hợp 15 . Thì không phải là số ma phương của của Lạc thư sao ? 
Ma phương lạc thư tổng các số ngang , dọc , chéo , trong , ngoài  đều 15 biểu đạt Đại Đạo ở tất cả mọi pháp , mọi sự vật . 

Địa-Nhân nguyên bàng phối (Thiên y, hợp 5, hợp 15)
Tiên thiên bàng phối: Càn phối Cấn, Đoài phối Khôn, Ly phối Tốn,
 Chấn phối khảm.
Nhâm cấu thìn
Thìn cấu nhâm -------------- tiên thiên Khôn (nhâm 1) phối tiên thiên đoài (Thìn 4): địa
Quý cấu tị
Tị cấu quý -------------- tiên thiên khôn (quý 1) phối tiên thiên đoài (tị 4): nhân
Bính cấu tuất
Tuất cấu bính -------------- tiên thiên càn (bính 9) phối tiên thiên cấn (tuất 6): địa
Đinh cấu hợi
Hợi cấu đinh
Giáp cấu mùi
Mùi cấu giáp
Ất cấu thân
Thân cấu ất
Canh cấu sửu
Sửu cấu canh
Tân cấu dần
Dần cấu tân


Tứ: Huyền không nhị thập tứ sơn phối âm dương

Thiên nguyên càn khôn cấn tốn dương,
Tý ngọ mão dậu âm diệc tường,
Địa nguyên âm thìn tuất sửu mùi,
Giáp canh nhâm bính là dương phương,
Nhân nguyên, Dần thân tị hợi dương ngũ vị,
ất tân đinh quý âm phương lương,
nhược là dương long dụng âm thuỷ,
âm long dương thuỷ vạn niên xương,
duy hữu nhị thiên giao cấu pháp,
bất luận can chi dữ âm dương.


CÀN TỐN CẤN KHÔN NHÂM BÍNH GIÁP CANH DẦN THÂN TỊ HỢI 12 SƠN NÀY LÀ DƯƠNG.
TÝ NGỌ MÃO DẬU QUÝ ĐINH ẤT TÂN SỬU MÙI THÌN TUẤT 12 SƠN NÀY LÀ ÂM.



Đồ hình này cũng chẳng qua là 24 long trong Huyền không phi tinh


Ngũ: Huyền Không Cửu Cung Phối Âm Dương


Nhất tam thất cửu (1 3 7 9) cung là dương
Nhị tứ lục bát (2 4 6 8) cung là âm 
Các số âm dương này chỉ mang tính tương đối khi dùng, thực tế mỗi số tùy thời đều có lúc
âm có lúc dương, việc cố định các số này (như Lục pháp chẳng hạn) là một sai lầm rất lớn, cần đặc
biệt lưu ý.

Quyết thì đã ghi rõ ràng rồi còn bình luận lung tung qua phái khác , trình đã kém còn đi chú giải . Khi các số đứng riêng rẽ thì chẵn Âm , lẻ Dương , chẳng có quyển kinh dịch nào ghi chú khác đi cả . Học Âm-Dương mãi rồi lẫn lộn không phân biệt được đen trắng thị phi sao ? !... 1234 khi đứng một mình là trạng thái sinh khởi . Khi phối với Ngũ hoàng trung cung thì số âm hóa thành dương , dương hóa thành âm để rõ lý dịch biến , biến tất thông . Nhưng bản chất tại mỗi thời riêng nó thì âm chẵn , dương lẻ lý này bất biến . Nếu như trên có lẽ là trường hợp đặc biệt . Chắc là Bd lưỡng tính . Ha ha

Lục: Huyền Không Bát Quái Phối Âm Dương 
Càn khảm cấn chấn là dương
Khôn li tốn đoài là âm

Quyết này chuẩn người hiểu dịch ai cũng chấp nhận . 
Chẳng qua là âm quái đa dương , dương quái đa âm .
Quái dương thì nhiều hào âm , Quái âm thì nhiều hào dương



Vẽ lại đồ hình trên cho dễ hiểu . Nạp số Lạc thư vào tiên thiên bát quái . Các cặp 49-27-16-38 , chẳng qua là số sinh và số thành , hình thành một cặp biểu thị thái cực hiện hữu tại mỗi một điểm của thời không .

So sánh với Nam phái thì đây chính là Dương Công thư hùng đồ chân âm chân dương, đây
là chân âm dương của tiên thiên bát quái, không phải âm dương của hậu thiên bát quái và càng
không phải âm dương của các phương vị trên 24 sơn.

THẤT: TAM NGUYÊN CỬU VẬN 
Nhất vận khảm thuỷ quản 20 năm
Nhị vận khôn thổ quản 20 năm
Tam vận chấn mộc quản 20 năm
Tứ vận tốn mộc quản 30 năm
Lục vận càn kim quản 30 năm
Thất vận đoài kim quản 20 năm
Bát vận cấn thổ quản 20 năm
Cửu vận li hoả quản 20 năm

Quyết này phải xem lại . Lịch tam nguyên thời hiến do các nhà Thiên văn học đời tống soạn ra rất kỹ họ lấy thất tinh liên châu ( Nhật nguyệt kim mộc thủy hỏa thổ đứng thẳng hàng tại phương bắc hành thủy làm mốc , đó là năm , tháng , ngày và giờ giáp tý đầu tiên ) . Nên nhất vận số 1 hành thủy phi thuận lên dần dần 20 năm một vận theo Lạc thư tuần tự đến vận 5 khí vào trung cung  là hành thổ . Ở đây lại tới vận 5 một nửa là mộc một nửa là kim không tuân theo khí của thiên địa . Dám khẳng định là sai người xưa viết ra quyết này không rõ lý . Hoặc có kẻ chơi xấu cố tình lợi dụng sự mập mờ của chữ nghĩa viết lệch đi . Mấy kẻ hậu học vì thiếu trình chỉ biết đưa sách ra phổ biến kiếm lợi chứ chẳng thấy bình luận gì . Khà khà 

BÁT: NHỊ PHIẾN
Nhất nhị tam tứ (1234) thuộc thượng nguyên nhất phiến.
Lục thất bát cửu (6789) thuộc hạ nguyên nhất phiến.

    Hai chữ thượng nguyên hay hạ nguyên họ dùng ở đây , nghĩa chính của nó là nguyên khí hoặc nguyên thần cũng được ( Không phải thượng , trung , hạ nguyên ở trong lịch dùng để chỉ thời không ) . Lời lẽ của bọn giang hồ thuật sĩ , nói để mê hoặc lòng người đã quen .
       Nghĩa chính của thái cực diễn ra Tiên - Hậu bát quái . Nhất khí hay nguyên khí theo chín cung tả sang hữu thì thành tượng khí dương , đi nghịch hữu sang tả thì thành tượng khí âm . Ở đây nếu diễn theo lưỡng nghi phương thẳng đứng từ 1,2..4 là tượng âm-dương tiêu trưởng của nghi dương ; 6,7..9 số thành là tượng âm-dương tiêu trưởng của nghi âm . Cũng là thượng nguyên nhất phiến , hạ nguyên nhất phiến mà họ nói .





Nhất lục (1-6), tứ cửu (4-9) kim thuỷ tương sinh là nhất phiến ngũ hành.
Nhị thất (2-7), tam bát (3-8) mộc hoả tương sinh là nhất phiến ngũ hành.
 Bình Giải :
Gợi ý mở rộng thêm cho các bạn về đoạn này .
Mười thiên can tuần tự gia thêm số vào ta có : 
Giáp 1 - Ất 2 - Bính 3 - Đinh 4 - Mậu 5 - Kỷ 6 - Canh 7 - Tân 8 - Nhâm 9 - Quí 10
Nên : 
Giáp kỷ hợp thủy - Ất canh hợp hỏa - Bính tân hợp mộc - Đinh nhâm hợp kim - Mậu quí hợp thổ 

Thiên can ngũ hợp hóa khí khi đủ điều kiện tùy theo cục thế của nó , hóa ra bất cứ hành nào trong năm hành , chứ không phải cố định như :Giáp - Kỷ hóa Thổ
Ất - Canh hóa Kim
Bính - Tân hóa Thủy
Đinh - Nhâm hóa Mộc
Mậu - Quý hóa Hỏa
Bạn nào giỏi Tử bình sẽ rõ điều này ! Ở đây họ cố định các cặp số có ngũ hành riêng biệt chẳng hạn (4-9) hành kim vậy không biết họ làm kết phát được mấy ngôi nhà mấy cái mộ rồi . Mà nói như đúng rồi , chia rẽ phái này đả kích phái kia . Hay chỉ là màn tuyên truyền nhét chữ vào mồm các bậc chân sư phong thủy đời xưa họ nói là tổ sư của họ ?



CỬU: HUYỀN KHÔNG LÀ HỢP NGŨ HỢP THẬP HỢP THẬP NGŨ

.[1-6] với [4-9] nhất phiến: Phối hợp 10, hợp 5,15
Nhất tứ hợp ngũ (1-4=5) kim thuỷ tương sinh, lục cửu hợp thập ngũ (6-9=15) kim thuỷ
tương sinh.
Nhất cửu hợp thập (1-9=10) kim thuỷ tương sinh, tứ lục hợp thập (4-6=10) kim thuỷ tương
sinh.
2-7] với [3-8] Nhất Phiến: Phối hợp 10, hợp 5, 15
.Nhị tam hợp ngũ (2,3=5) mộc hoả tương sinh, thất bát hợp thập ngũ (7,8=15) mộc hoả
tương sinh.
nhị bát hợp thập (2,8=10) mộc hoả tương sinh, tam thất hợp thập (3,7=10) mộc hoả tương
sinh
Thể: hay bản chất nhất phiến theo trục sửu mùi của hà đồ!

Nhưng khi đem đi sử dụng thì chuyển thành trục Thìn tuất của Lạc thư!
4-9 và 1-6 là 1 cặp thư hùng
3-8 và 2-7 là 1 cặp thư hùng
4-9 không thể hợp với 2-7 vì cùng một phiến
3-8 không thể hợp với 1-6 vì cùng một phiến
Thuần dương bất sinh, thuần âm không trưởng.

Liên Thành 24 sơn lập hướng thì sơn, hướng, phong, sa, thủy đều phù hợp với các luật
hợp ngũ, hợp thập, hợp thập ngũ bên trên, đây là yếu quyết sinh thành của ngũ hành, được Liên
Thành hiểu và vận dụng rất sâu sắc và cũng liên hệ rất mật thiết với phép thu sơn xuất sát của
Liên Thành mà cho đến nay vẫn ít người hiểu được. Chỉ có thể là "tâm thọ khẩu truyền hoặc người
đắc thiên cơ" mới có thể hiểu được mà thôi.

Lý đoạn này đã bàn qua ở trên A/


CHƯƠNG 2: HUYỀN KHÔNG ĐẠI QUÁI

Nhất: Phụ mẫu thông căn quái

1. Phụ mẫu: sơn thượng thông căn quái:
Thiên nguyên: Phụ mẫu thông căn quái hợp 5, hợp 15.
Địa nguyên – Nhân nguyên: Phụ mẫu thông căn quái hợp 10.

Quyết là:
Huyền không phong thuỷ dụng thông căn,
Nhất thông thông đáo nam thiên môn,
Lôi thanh khinh quá tây nam địa,
Thiếu nữ vu sơn độc hoài xuân.
Tứ chính tý ngọ tại đối cung,
Tứ duy dã giảng đối trung thần,
Thuận nghịch đãn khan âm dữ dương,
Án tự tiệm tiến tả hữu luân.

Giảng nghĩa:
Đệ nhất câu: “Huyền không phong thuỷ dụng thông căn
”Phong xét dưới khía cạnh tiên thiên còn là Tốn, Thủy là khảm – Tốn (2), khảm (7) dụng
thông căn theo nguyên lý (2-7) hay là sinh thành của Hà đồ [xem toàn bộ ải tinh phần sau sẽ rõ].
Nguyên lý tiên thiên sinh thành thông căn được thể hiện dưới khía cạnh hậu thiên: Khảm quái 2
sơn Nhâm Quý – Tốn quái 02 sơn Thìn Tị:

  •  Địa nguyên nhâm thông thìn: Nhâm thuộc địa nguyên tiên thiên thuộc Khôn (1),
Thìn thuộc địa nguyên tiên thiên là Đoài (4) – Lão âm lão dương giao cấu.

  •  Nhân nguyên: Quý thông tị cũng tương tự.
Phong là hậu thiên tốn vậy, thuỷ là hậu thiên khảm vậy, tức nói khảm quái 2 sơn nhâm
quý với tốn quái 2 sơn thìn tị tương thông nhau, thế nhân cứ nói "phong thủy" mà không biết đây
là khởi nguồn của Thông căn quái.

Đệ nhị câu:“Nhất thông thông đáo nam thiên môn”
Nhất thông thông đáo là nối tiếp của câu trên, ý nói là sự liên tục nhau, nam là hậu thiên
li vậy, thiên môn là hậu thiên càn vậy, tức li quái 2 sơn bính đinh với càn quái 2 sơn tuất hợi tương
thông nhau
Đệ tam câu : “Lôi thanh khinh quá tây nam địa
”Lôi là hậu thiên chấn, tây nam hậu thiên khôn, tức chấn quái 2 sơn giáp ất với khôn quái
2 sơn mùi thân tương thông nhau.
Đệ tứ câu :“Thiếu nữ vu sơn độc hoài xuân”:
Thiếu nữ hậu thiên đoài quái, vu sơn là hậu thiên cấn quái, tức đoài quái 2 sơn canh tân
với cấn quái 2 sơn sửu dần tương thông nhau.
“Tứ chính tý ngọ tại đối cung,
Tứ duy dã giảng đối trung thần,
Thuận nghịch đãn khan âm dữ dương,
Án tự tiệm tiến tả hữu luân.”
2 câu đầu giảng tứ chính tý ngọ mão dậu cùng tứ ngung càn khôn cấn tốn 8 sơn thì thông
căn tại đối cung của chính sơn đó (đích trung thần là trung hào, cũng là thiên nguyên long).
2 câu sau giảng âm dương thuận nghịch bài pháp, theo thứ tự mà xét, thuận đối âm (thuận
thời châm), nghịch đối dương (nghịch thời châm) theo âm dương đó mà tả hữu lần lượt bài tới.)




Tiên thiên âm dương biến hóa giao cấu đồ (Thông căn đồ), hay còn gọi là Lưới
Đế Thích (lưới trời Đế Thích bên Đạo gia)

Tam nguyên Thiên-Địa-Nhân giao cấu này thực sự là chính pháp của Huyền không đại
quái: Thiên –địa-nhân nguyên Tiên thiên âm dương biến hóa giao cấu (nhập thủ long phối xuất
thủy khẩu) diễn giải như sau:
1. Thiên nguyên: Diên Niên, Hợp 10.
Tý long nhập thủ, thủy khẩu phối ngọ → tý tiên thiên là khôn, lão âm
Ngọ long nhập thủ, thủy khẩu phối tý → ngọ tiên thiên là kiền, lão dương
Càn long nhập thủ, thủy khẩu phối tốn → Càn tiên thiên là cấn, lão âm
Tốn long nhập thủ, thủy khẩu phối Càn → tốn tiên thiên là đoài, lão dương
Mão long nhập thủ, thủy khẩu phối dậu → mão tiên thiên là ly, thiểu âm
Dậu long nhập thủ, thủy khẩu phối mão → dậu tiên thiên là khảm, thiểu dương
Khôn long nhập thủ, thủy khẩu phối cấn → khôn tiên thiên là tốn, thiểu âm
Cấn long nhập thủ, thủy khẩu phối khôn → cấn tiên thiên là chấn, thiểu dương
2. Nhân nguyên
Quý long nhập thủ, thủy khẩu xuất tị → quý tiên thiên là (thân: nhân nguyên tại Khôn) quái chi tử
lão âm.
Tị long nhập thủ, thủy khẩu xuất quý → tị tiên thiên là (tân: nhân nguyên tại đoài) quái chi tử lão
dương.
Tân long nhập thủ, thủy khẩu xuất dần → tân tiên thiên chi (quý: nhân nguyên tại khảm) quái chi
tử thiểu dương.
Dần long nhập thủ, thủy khẩu xuất tân → quý tiên thiên chi (ất chấn) quái chi tử thiểu âm
Ất long nhập thủ, thủy khẩu xuất thân → ất tiên thiên chi (đinh ly) quái chi tử thiểu âm
Thân long nhập thủ, thủy khẩu xuất ất → thân tiên thiên chi (tị tốn) quái chi tử thiểu dương
Đinh long nhập thủ, thủy khẩu xuất hợi → đinh tiên thiên chi (hợi kiền) quái chi tử lão dương
Hợi long nhập thủ, thủy khẩu xuất đinh → hợi tiên thiên chi (dần cấn) quái chi tử lão âm
3. Địa nguyên
Nhâm long nhập thủ, thủy khẩu xuất thần → nhâm tiên thiên chi (mùi khôn) quái chi tử lão âm
Thần long nhập thủ, thủy khẩu xuất nhâm → thần tiên thiên chi (canh đoái) quái chi tử lão dương
Canh long nhập thủ, thủy khẩu xuất sửu → canh tiên thiên chi (nhâm khảm) quái chi tử thiểu
dương
Sửu long nhập thủ, thủy khẩu xuất canh → sửu tiên thiên chi (giáp chấn) quái chi tử thiểu âm
Giáp long nhập thủ, thủy khẩu xuất mùi → giáp tiên thiên chi (bính ly) quái chi tử thiểu âm
Mùi long nhập thủ, thủy khẩu xuất giáp → Mùi tiên thiên chi (thìn tốn) quái chi tử thiểu dương
Bính long nhập thủ, thủy khẩu xuất tuất → bính tiên thiên chi (tuất kiền) quái chi tử lão dương
Tuất long nhập thủ, thủy khẩu xuất bính → tuất tiên thiên chi (sửu cấn) quái chi tử lão âm
Ở phần trên: thiên, nhân, địa nguyên thể hiện tiên thiên âm dương biến hóa giao cấu (long nhập
thủ, thủy xuất khẩu), tiên thiên âm dương biến hóa.
Như vậy nguyên lý thông căn đều hợp Thư Hùng (âm dương); Hợp tứ tượng 16 27 38 49; và hợp
Thiên-địa-nhân nguyên.
Đây là Sơn thượng thông căn quyết, một trong các quyết quan trọng nhất của Liên Thành, sẽ nói
rõ chi tiết ở phần sau).

Bình Giải :
Từ  CHƯƠNG 2: HUYỀN KHÔNG ĐẠI QUÁI đến bây giờ họ nói trên trời dưới biển về cái quyết Nhất: Phụ mẫu thông căn quái 
Quyết là:
Huyền không phong thuỷ dụng thông căn,
Nhất thông thông đáo nam thiên môn,
Lôi thanh khinh quá tây nam địa,
Thiếu nữ vu sơn độc hoài xuân.
Tứ chính tý ngọ tại đối cung,
Tứ duy dã giảng đối trung thần,
Thuận nghịch đãn khan âm dữ dương,
Án tự tiệm tiến tả hữu luân.

Bạn chỉ cần nhìn kỹ cái hình tôi vẽ lại dưới đây là bạn hiểu ngay . Chẳng qua là họ nạp số Lạc thư vào Tiên thiên bát quái , sau đó họ phối số Lạc thư với 24 sơn hướng địa bàn . Từ đó các cặp sơn hay hướng nào hợp tổng bằng 5  hay 10 hoặc 15 là họ cho đó là thông căn .
Bạn nhìn ở trung tâm có cái hình lưới mà họ gọi là (lưới trời Đế Thích bên Đạo gia)  đối chiếu ra hình bên ngoài là bạn hiểu ngay 




Huyền không thuỷ lí thông căn 
Quyết là:
Nhâm thông mùi địa quý thông thân
Giáp tại tuất trung ất tại hợi
Bính khởi sửu cung đinh khởi dần
Canh vọng thìn hề tân vọng tị
Tứ chính tứ duy dã đối cung
Kì quái thả tuỳ sơn thượng khởi
Thuận nghịch ai khứ hợp quái nội
Hợp ngũ hợp thập hợp thập ngũ

Nhâm _ Mùi

Tý _ Ngọ

Quý _ Thân

Sửu _ Bính

Cấn _ Khôn

Dần _ Đinh
Giáp  _  Tuất

Mão _ Dậu

Ất _ Hợi

Thìn _ Canh

Tốn _ Càn

Tị  _  Tân

Bính  _  Sửu

Ngọ  _  Tý

Đinh  _  Dần

Mùi  _  Nhâm

Khôn   _  Cấn

Thân  _  Quý

Canh  _  Thìn

Dậu  _  Mão

Tân  _  Tị

Tuất  _  Giáp

Càn  _  Tốn

Hợi  _  Ất 

Đây là Thủy lí thông căn quyết, một trong các quyết quan trọng nhất của Liên Thành. Cũng
là bí quyết dụng "thủy pháp"

Nhị: Huyền không sơn thượng thông căn cầu thiên quái;
Sơn thượng bài quái xuất thông căn,
Đối cung thiên quái tiện thị chân.

Bình Giải :
Bàn về đoạn (Nhị: Huyền không sơn thượng thông căn cầu thiên quái) họ dùng cái phi tinh chuồn chuồn của riêng họ ở dưới , để giải thích sự thông căn hay chỉ là vẽ ra để làm rắc rối phức tạp cố tạo ra huyền diệu mê hoặc tâm trí . Chứ đơn giản bạn nhìn vào cái hình tôi vẽ ra sau đây bạn hiểu liền . Cũng chỉ là Âm-Dương nhị phiến , hợp 5 , hợp 10 , hợp 15  . Mà họ đã đưa ra coi như là tiên đề của họ . Chứng minh biện luận  mọi cái rối rắm huyền diệu bí ảo của bộ môn phong thủy . 
Nhâm thông căn Thìn vì cùng phiến 16 - 49 ( nhâm 1 cộng thìn 4 = 5 hợp ngũ )
Tý thông căn ngọ cùng phiến 16 - 49 ( tý 1 + Ngọ 9 = 10 hợp thập  )
Càn thông căn Tốn cùng phiến 16 - 49 ( Tốn 4 + Càn 6 = 10 hợp thập )
Dần thông căn tân cùng phiến 27 -38 ( dần 8 + Tân 7 = 15 hợp thập ngũ )
Sửu thông canh tương tự hợp thập ngũ cùng phiến
Khôn thông cấn hợp thập cùng phiến
Các sơn Giáp , Mão , Ất , Dậu , Tuất , Hợi , Bính , Thân họ chưa liệt kê ra nhưng nhìn cũng đoán biết chẳng qua qui luật là : Hợp thập , hợp ngũ , hợp thập ngũ và cùng phiến .


Nhâm sơn:
Nhâm sơn thượng thông căn tại thìn, thìn tại Tốn tứ cung, từ tốn tứ cung khởi 4, nhâm
sơn dương nghịch hành, 4 tại Tốn, 5 nhập trung, 6 tại chấn, 7 tại Cấn, 8 tại Khảm, 9 tại Càn, 1 tại
Đoài, 2 tại Khôn, 3 tại Ly.


Bình Giải : Phi tinh chuồn chuồn của họ đây , các bạn chưa hiểu luật mà đọc nó chỉ có đứt mạch máu não . Đang chứng minh Nhâm thông căn Thìn , họ cho Thìn 4 khởi nghịch từ phải sang trái  và cứ đến 5 họ cho nhập TRUNG CUNG sau đó đi tiếp , không theo LƯỢNG THIÊN XÍCH đến Nhâm là 8 , họ lại nói tiếp , 8 là địa quái đối cung là thiên quái Chấn 3 ( cùng phiến ) nên thông căn chẳng thấy nói gì liên quan đên Thìn cả ?

Nếu nói như vậy thì chỉ cần nói Nhâm 1 , Thìn 4 hợp ngũ là được rồi .
Thực ra họ chưa đủ trình để thấy  hoặc nói lấp lững cố giấu . Nhìn cái đồ hình ta thấy .
Thiên quái 3 đối cung địa quái 8 . Thiên quái 4 đối cung địa quái 9 .
Thiên quái 2 đối cung địa quái 7 . Thiên quái 1 đối cung địa quái 6 .
Thiên quái địa quái họ nói ở đây chẳng qua là số sinh và số thành của Lạc thư các cặp 16-49-27-38 .
Thêm nữa là các số đứng cạnh không kể trung cung đều cùng phiến hợp thập , hợp ngũ , hợp thập ngũ .
Vậy khi phi tinh chuồn chuồn như vậy theo qui luật thuận nghịch họ đã nói , đã đặt ra  thì toàn bàn sẽ hợp số sinh thành , điều này là họ giấu hay kém quá họ không giải được !
Các sơn khác cách làm tương tự .

8 đến nhâm là địa quái, thiên quái tại đối cung, nên nhâm sơn thiên quái là 3 chấn.
Tý sơn:
Tý sơn thượng thông căn tại ngọ, ngọ tại li cửu cung, theo li cung khởi cửu, tý sơn âm
thuận hành, 9 tại Ly, 1 tại Khôn, 2 tại Đoài, 3 tại Càn, 4 tại Khảm, 5 nhập trung, 6 tại Cấn,
7 tại Chấn, 8 tại Tốn.


4 đến tý là địa quái, thiên quái tại đối cung, nên tý sơn thiên quái là cửu li

Quý sơn:
Quý sơn thượng thông căn tại tị, tị tại tốn tứ cung, theo tốn tứ cung khởi tứ, quý sơn âm
thuận hành, 4 tại Tốn, 5 nhập trung, 6 tại Ly, 7 tại Khôn, 8 tại Đoài, 9 tại Càn, 1 tại Khảm, 2 tại Cấn,
3 tại Chấn.


1 đến quý là địa quái, thiên quái tại đối cung, nên quý sơn thiên quái là lục càn.

Sửu sơn:
Sửu sơn thượng thông căn tại canh, canh tại đoài thất cung, theo đoài thất cung khởi thất,
sửu sơn âm thuận hành.

Nhất đáo sửu là địa quái, thiên quái tại đối cung, nên sửu sơn thiên quái là lục càn.
Cấn sơn:Cấn sơn thượng thông căn tại khôn, khôn nhị cung, theo khôn nhị cung khởi nhị dương
sơn nghịch hành.
  


Thất đáo cấn là địa quái, thiên quái tại đối cung, cho nên cấn sơn thiên quái là nhị khôn.  

Dần sơn:
Dần sơn thượng thông căn tại tân, tân tại đoài thất cung, theo đó đoài thất cung khởi
thất, dần sơn dương nghịch hành.


Tam đáo dần là địa quái, thiên quái tại đối cung, cho nên dần sơn thiên quái là bát cấn.

Thìn sơn:
Thìn sơn thượng thông căn tại nhâm, nhâm tại khảm nhất cung, theo đó khảm nhất cung
khởi nhất, thìn sơn âm thuận hành.
Tứ đáo thìn là địa quái, thiên quái tại đối cung, cho nên thìn sơn thiên quái là cửu li.


Tốn sơn:
Tốn sơn thượng thông căn tại càn, càn tại càn lục cung, theo đó càn lục cung khởi lục, tốn
sơn dương nghịch hành.


Nhất đáo tốn là địa quái, thiên quái tại đối cung, cho nên tốn sơn thiên quái là lục càn.

Tị sơn:
Tị sơn thượng thông căn tại quý, quý tại khảm nhất cung, theo đó khảm nhất cung khởi
nhất, tị sơn dương nghịch hành.

Thất đáo tị là địa quái, thiên quái tại đối cung, cho nên tị sơn thiên quái là nhị khôn

Huyền không sơn thượng thiên quái địa nguyên cửu cung đồ

THÌN CỬU _ BÍNH TỨ _ MÙI NHỊ

GIÁP NHẤT _ TRUNG _ CANH THẤT

SỬU LỤC _ NHÂM TAM _ TUẤT BÁT

Bình Giải : Họ dùng đồ hình này để minh chứng cho Địa nguyên long của họ . ( 24 long trên la kinh họ cũng chia ra 3 loại là Thiên nguyên long , Địa nguyên long , Nhân nguyên long , giống như bên Huyền không phi tinh  ) . Đồ hình này là Nhân nguyên long . Họ cũng dùng phi tinh chuồn chuồn của họ nhưng lại kết hợp với LƯỢNG THIÊN XÍCH .


Huyền không sơn thượng thiên quái thiên nguyên cửu cung đồ



tốn lục _    ngọ nhất _  khôn bát 


mão thất _trung _ dậu tam


cấn nhị  _ tý cửu _  càn tứ

Bình Giải : Đồ hình này là chứng minh Thiên nguyên long của họ , cũng phi tinh chuồn chuồn nhưng vô tình lại giống như LƯỢNG THIÊN XÍCH 
Huyền không sơn thượng thiên quái nhân nguyên cửu cung đồ
tị nhị _ đinh thất _ thân tứ
ất tam _ trung _ tân cửu
dần bát _ quý lục _ hợi nhất

Bình Giải : Đồ hình này là chứng minh Nhân nguyên long của họ , cũng phi tinh chuồn chuồn kết hợp với LƯỢNG THIÊN XÍCH phi nghịch .

  SƠN THƯỢNG THIÊN QUÁI 24 SƠN ĐỒ

Bình Giải : Từ ba đồ hình phi tinh chuồn chuồn kết hợp với LƯỢNG THIÊN XÍCH ở trên họ cho ra đồ hình 24 thiên địa nhân long  này , nhưng họ cũng không ghi rõ đâu là Thiên long , Địa long , Nhân long đúng là bọn giang hồ thuật sĩ xấu bụng . Tôi sẽ vẽ lại cho rõ ở dưới đây để bạn xem .

Đồ hình tôi vẽ lại có ghi rõ Thiên , Địa , Nhân long các bạn đối chiếu trong ngoài thì rõ 

Tam: Huyền không thuỷ lý thông căn cầu địa quái


Nguyên tắc là : Sơn một đường, thủy một đường
- Sơn thượng bài theo: Dương nghịch, âm thuận
- Thủy lý bài theo: Dương thuận âm nghịch
Thí dụ: Nhâm sơn.
Nhâm sơn thượng thông căn tại thìn, thìn tại Tốn tứ cung, từ tốn tứ cung khởi 4, nhâm
sơn dương thuận hành, 4 tại Tốn, 5 nhập trung, 6 tại ly, 7 tại khôn, 8 tại đoài, 9 tại Càn, 1 tại
khảm, 2 tại cấn, 3 tại chấn.
01 đến nhâm là địa quái, nên nhâm sơn địa quái là nhất khảm.
Vậy thì tại sao lại cần đến khẩu quyết của thủy lý thông căn?
Thực tế ứng dụng thủy pháp thì đây là một quyết quan trọng. Qua nghiên cứu thì thấy
ứng dụng này cũng tương đồng với pháp "Tam đại quái" của Tưởng Đại Hồng.
Cổ thư cũng có chép về quyết này, xin được đưa ra để làm minh chứng.
“Thuỷ tòng địa hạ nhị bàng cầu,
Xuân lôi tự tòng thiên thượng lai,
Nhật chiếu sơn đầu dung dung ý,
Phong xuy trạch chiểu thị bàng thu.
Tứ chính nam lai bắc vãng gian,
Tứ duy hoàn thị tòng trung thủ,
Âm dương thuận nghịch chiếu cục chuyển,
Nhất vị nhất cung tư tế luân.
”“Thuỷ tòng địa hạ nhị bàng cầu”:
Thuỷ là hậu thiên khảm vậy, địa là hậu thiên khôn vậy, nhị bàng tức hai hào hai bên, tức
là khảm quái thì nhâm quý với khôn quái hai sơn mùi thân tương thông.
“Xuân lôi tự tòng thiên thượng lai”:
Xuân lôi là hậu chấn vậy, thiên thượng là hậu thiên càn vậy, tức chấn hai hào (sơn) giáp
ất với càn quái hai hào tuất hợi tương thông.
“Nhật chiếu sơn đầu dung dung ý ”:
Nhật là hậu thiên li vậy, sơn là hậu thiên cấn vậy, tức li quái hai hào bính đinh với cấn
quái hai hào sửu dần tương thông.
“Phong xuy trạch chiểu thị bàng thu”:
Phong là hậu thiên tốn vậy, trạch, chiểu, thu đều là nói hậu thiên đoái vậy, tức là hậu thiên
tốn hai hào thìn tị với hậu thiên đoài quái hai hào canh tân tương thông.
“Tứ chính nam lai bắc vãng gian”:

Chính là tứ chính quái trung hào (sơn thiên nguyên) tương ứng nhau, nam bắc chính là tý
ngọ tương thông, đương nhiên đông tây quái thì mão dậu cũng là tương thông như vậy.
“Tứ duy hoàn thị tòng trung thủ”
Tứ duy quái chính là trung hào càn khôn cấn tốn cùng dạng với tứ chính đối đãi tương
thông.
“Âm dương thuận nghịch chiếu cục chuyển, nhất vị nhất cung tư tế luân ”.
Chính là nói âm sơn thuận chuyển, dương sơn nghịch chuyển bài pháp.
Thủy lý thông căn thị địa quái,
Địa quái nguyên tại bản cung tầm.
Nhâm thuỷ:
Nhâm thuỷ lí thông căn tại mùi, mùi tại khôn nhị cung, theo đó khôn thượng không khởi
nhị mà khởi tứ nghịch hành.


Nhất đáo nhâm, cho nên nhâm thuỷ lí địa quái là nhất.

Bình Giải :
Từ đoạnTam: Huyền không thuỷ lý thông căn cầu địa quái  họ nói trên trời dưới biển đến đây chỉ để chứng minh cái câu TAM này , dùng cái phi tinh chuồn chuồn này , không khởi nhị khôn mà khởi tứ phi chuồn chuồn đến đáo nhất nhâm , họ cho đó là thông căn hợp ngũ . Bạn đọc chắc nổ não . Với mấy cái trò dẫn đi vòng vèo này .... Khà khà .
Đơn giản đây chỉ là trò điên điên , khùng khùng , điên đảo , đảo điên mà họ nói ở :
 NHỊ: TIÊN HẬU THIÊN ÂM DƯƠNG ĐIÊN ĐẢO 
Thật ra chỉ là trò diễn lý của Tiên thiên bát quái . Tôi lấy cái hình của họ và vẽ lại theo lý họ nói là bạn hiểu ngay tại sao không khởi nhị khôn mà khởi tứ đoài . Họ cũng chẳng nói tứ đoài họ chỉ ghi khởi 4 ( đúng là lanh mưu ... Ha ha ) .
 Lý của họ nói là thông nhau vì khôn hậu thiên và khôn tiên thiên 
Bình Giải : Hình gốc của họ nói về lý âm - dương điên dảo , họ cho Càn từ trên trời phía nam chui tận vào phía bắc trong đất luôn .
Hình dưới đây tôi vẽ lại cũng cho Càn từ trên trời phía nam , chuyển qua phía tây ra hình dưới đây ! Giải được tại sao khởi 4 ở khôn hậu thiên phía tây nam . 
Vậy giải thích lý thông căn thủy các sơn khác cũng tương tự vậy !
Dùng hình này cũng giải thích được . Tứ cửu số của Hà đồ phối  Hậu Thiên bát quái ở phía tây 

Tý thuỷ:
Tý thuỷ lí thông căn tại ngọ, ngọ tại li cửu theo đó li thượng khởi cửu nghịch hành


Tứ đáo tý, cho nên tý thuỷ lí địa quái là Tứ
Quý thuỷ lí thông căn tại thân, thân tại khôn cung theo đó khôn cung không khởi nhị mà
thượng khởi tứ thuận hành.


Bát đáo quý, quý thuỷ lí địa quái là bát.
Các sơn khác cũng quyền như vậy
Tổng lại thủy lí địa quái 24 sơn đồ:
Huyền không thuỷ lí địa quái địa nguyên cửu cung đồ

THÌN THẤT _ BÍNH NHỊ _ MÙI CỬU

GIÁP BÁT _ TRUNG _ CANH TỨ

SỬU TAM _ NHÂM NHẤT _ TUẤT LỤC

Nhất đến Nhâm bay nghịch

Bình giải : Bằng hình ảnh 
Huyền không thuỷ lí địa quái địa nguyên cửu cung đồ
Chẳng qua là lý của Hậu thiên quái phối tượng Hà đồ !


Huyền không thuỷ lí địa quái thiên nguyên cửu cung đồ

TỐN NHẤT _ NGỌ LỤC _ KHÔN TAM

MÃO NHỊ _ TRUNG _ DẬU BÁT

CẤN THẤT _ TÝ TỨ _ CÀN CỬU


Nhất đến Tốn bay nghịch
Bình giải : Bằng hình ảnh
Thú vị các lão sư đại quái cũng biết chơi !


Huyền không thuỷ lí địa quái nhân nguyên cửu cung đồ

TỊ TỨ _ ĐINH CỬU _ THÂN THẤT


ẤT LỤC _ TRUNG _ TÂN NHỊ


DẦN NHẤT _ QUÝ BÁT _ HỢI TAM

Nhất đến Dần bay nghịch



Bình giải : Bằng hình ảnh
 Nhất đến Dần bay nghịch
Các lão sư đại quái cũng thú vị thật ! Đem cái phi tinh chuồn chuồn bay tới , bay lui làm đảo lộn cả Hậu Thiên quái nhưng vẫn giữ đúng bản chất của nó . Không như các đại sư lưu manh quái Việt Nam chỉ biết dịch sách xong đưa sách ra phổ biến , bình loạn vài dòng rồi bảo được chân truyền , ngộ đạo , ông này ông kia  nhưng xét kỹ thật giống lưu manh giảng đạo , tiều phu đánh đàn !

Thủy lý địa quái 24 sơn đồ

Bình Giải : Cái đồ hình 24 sơn địa quái thủy lý này họ đã vẽ đưa ra còn giấu giấu , giếm giếm . Đúng là lối tư duy hạ tiện lưu manh đã quen . Mấy loại này mà học đạo thì chỉ có phá đạo .
Tôi vẽ lại cái đồ hình này nói rõ họ chơi bẩn ở đâu và chú giải lại dưới đây !

Bình Giải : Hình 24 sơn địa quái thủy lý tôi vẽ lại , bạn nhìn vào các số tôi khoanh tròn trên hình vẽ thay vì phải viết số 9 màu xanh đậm họ lại viết màu đen , thay vì viết số 7 màu xanh lợt họ lại viết màu đen . Điều này nghĩa là gì ? Họ có giấu qui luật của nó .
Qui luật của nó là : Họ dụng cái lối phi tinh chuồn chuồn của họ cũng phi theo LƯỢNG THIÊN XÍCH nhưng cứ đến số 5 dù bất cứ nơi đâu , họ cho 5 nhập trung cung rồi phi tiếp . Ở đây là phi nghịch theo LƯỢNG THIÊN XÍCH .

CHƯƠNG 3: HUYỀN KHÔNG TỨ ĐẠI CỤC

Từ chương 3 này tôi sẽ viết ở blog tiếp theo !