Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2014

Sưu tầm thuốc chữa rắn cắn !



Ông Lộc là người dân tộc Tày, ngôi nhà ông ở cũng là một ngôi nhà sàn mộc mạc theo phong cách truyền thống của người Tày. Năm nay ông 59 tuổi, ngày trước ông làm ở Công ty dược phẩm tỉnh Nghĩa Lộ (cũ), chuyên phụ trách tổ thu mua dược liệu.

Chốn rừng thiêng nước độc này nếu có rắn thì chỉ toàn rắn độc, nhiều nhất là các loại rắn hổ mang, hổ chúa, rắn lục, rắn cạp nong, cạp nia... nghe qua đã không khỏi rùng mình ớn lạnh. "Nếu nạn nhân bị rắn cạp nia cắn phải chỗ phạm (chẳng hạn như cổ, mặt - PV), nhanh thì chết sau một tiếng còn chậm thì khoảng một ngày. Hổ mang mặc dù nọc không độc bằng cạp nia nhưng lượng nọc lại nhiều hơn, vì thế khả năng sát thương cũng chẳng khác là bao", ông Lộc nói. Ông còn cho biết thêm, nạn nhân bị rắn cắn chủ yếu là người đi rừng, đi đêm, và cả những người thợ buôn bắt rắn: "Trước ở đây nhiều rắn lắm nhưng giờ nhiều người bắt nên lượng rắn đã giảm. Tuy vậy, rắn vẫn là nỗi kinh hãi lớn nhất đối với những người đi rừng".


Trong rừng có nhiều loại cây có thể sơ cứu, kìm hãm được nọc độc rắn, nhưng có mấy ai biết. Nếu bị rắn cắn thấy vết răng đều thì là rắn lành, nhược bằng thấy có hai vết sâu hoắm phía trước, vết thương ít chảy máu nhưng rất đau nhức và sưng tấy, chỗ hai vết nanh bầm tím thì đích thị là rắn độc. Bị rắn độc cắn, ban đầu bệnh nhân đau buốt dữ dội, sau mệt dần, mất cảm giác, rồi hôn mê mà chết.

Những thảo dược kỳ diệu
Khac tinh cua ran doc
Những cây thuốc được ông Lộc di thực từ núi cao về vườn nhà


Trong những năm công tác ở Công ty dược tỉnh Nghĩa Lộ, ông Lộc thường tham gia vào các đoàn điều tra sưu tầm cây thuốc của tỉnh và trung ương. Công dụng của từng loại cây ông nắm rất rõ. Bước chân ông cũng chẳng thiếu chỗ nào, tới khắp các miền sâu xa nhất của Tây Bắc.


Ông Lộc nhớ lại, trong suốt quãng thời gian công tác ông học được nhiều bài thuốc của người dân tộc, trong đó có bài thuốc chữa rắn cắn. "Tôi học được nhiều ở các ông lang, bà mế dân tộc, cộng thêm kiến thức khoa học nên tôi có một vốn kinh nghiệm khá dày dặn", ông nói.


Khi bệnh nhân bị rắn cắn, chỉ cần lấy cây thuốc còn tươi đem nhai hoặc giã lấy nước uống còn bã đắp vào vết thương, thế là... khỏi. Loại kỳ dược gì lại hiệu nghiệm đến thế? Có thể với người khác đó là bí mật, chỉ bí truyền trong phạm vi hẹp, nhưng với ông Lộc thì chẳng những ông không hề giấu mà thậm chí còn phổ biến cho bà con. Ông nói: "Những bài thuốc này tôi học được trong thiên hạ thì chẳng cớ gì tôi không truyền lại cho bà con. Có điều học là một chuyện còn đem cái học được ra ứng dụng thì phải có thêm kinh nghiệm". Chỉ cần người bệnh còn uống được thuốc là có thể chữa khỏi. Tùy theo thời gian từ khi rắn cắn đến lúc đắp thuốc ngắn hay dài mà quá trình bình phục cũng khác nhau. Người vừa bị cắn chỉ cần khoảng 1 vài tiếng là khỏi.


Theo ông, những cây thuốc thông thường dễ kiếm như rau dăm, lá mướp đắng, lá sắn dây... đều có tác dụng tốt. Người bệnh chỉ cần nhai lấy nước và đắp bã vào vết thương thì lập tức chất độc sẽ bị hạn chế rất nhiều, không còn nhiều khả năng nguy hiểm đến mạng sống. Thế nhưng đối với những ca mà tính mệnh bệnh nhân như chỉ mành treo chuông thì phải cần đến những loại thuốc đặc hiệu. Ông Lộc giới thiệu hai loại kỳ dược: cây bát giác liên và cây bảy lá một hoa (hay còn có cái tên hoa mỹ là thất diệp chi mai - PV).


Ông Lộc dẫn chúng tôi ra vườn, đi thăm từng loại thảo dược, trong đó có cả hai loại kỳ dược nêu trên. Cả hai đều được di thực từ trên núi xuống. Trước đây ông Lộc di thực được cả một vườn cây bát giác liên nhưng sau đợt lũ quét khu vườn đã trở nên tiêu điều hơn rất nhiều, nhiều loại hoa cỏ thảo dược ông kỳ công sưu tầm cũng theo dòng lũ trôi hết. Tuy nhiên trong vườn vẫn còn khoảng 30 loại thuốc mới được ông khôi phục. Cứu người thoát khỏi tử thần

Khac tinh cua ran doc





Ông Lộc đang sao khô thuốc


Lúc về hưu (tháng 11.1993) ông Lộc bắt đầu chữa tập trung tại nhà. Tới nay, số ca bệnh qua tay ông đã lên tới con số trên 200, tất cả đều khỏi. "Thực ra thì có duy nhất một trường hợp nạn nhân vừa đưa đến cửa nhà tôi thì tắt thở - ông giãi bày - sau đó tôi phải mời công an xã và bộ phận y tế ở trạm xá tới nhà để lập biên bản".


Trong số những ca bệnh từng chữa, chỉ có một vài ca khiến ông nhớ tới bây giờ. Đầu tiên phải kể tới trường hợp của anh Hoàng Văn Độ ở thị trấn Ba Khe. Cách đây khoảng 5-6 năm, anh Độ bị rắn cạp nia cắn. Điều đáng nói, anh này là thợ chuyên bắt rắn. Sau khi bệnh viện trả về, gia đình đưa anh này tới nhà ông trong trạng thái toàn thân tím tái, sắp tắt thở. "Lúc ấy có tới hàng chục thanh niên chầu chực ở nhà tôi, họ chờ để lỡ bệnh nhân không qua khỏi thì đưa về luôn. Tôi còn nhớ rất rõ có người còn rục rịch đi tìm gỗ đóng áo quan", ông Lộc kể. Thế nhưng may mắn là anh này còn nuốt được nước. Sau 1 đêm chạy chữa, anh Độ đã tỉnh lại. Đêm đó, tử thần bỏ qua anh.

Khi bị rắn cắn, nạn nhân có thể lấy những thứ lá sau nhai nuốt nước và đắp bã vào vết thương: rau dăm, lá mướp đắng, lá sắn dây, rau dền gai, cây bòn bọt, cây rau bợ, lá dong, sau đó phải đến ngay cơ sở y tế gần nhất.


Một ca nữa cũng làm ông nhớ lâu, đơn giản vì bệnh nhân này ở nhà ông tròn một tháng. Anh Nguyễn Văn Bảy ở nông trường Thái Lão, Yên Bái bị rắn hổ mang cắn gây hoại tử, thịt dần thối hết. Ông Lộc đắp lá thuốc nam vào vết thương, sau một tháng thì thịt ở khu vực bị hoại tử lại mọc lên. Một người nữa cũng để lại ấn tượng trong ông là anh Lò Văn Sơn ở Nghĩa Tâm - Văn Chấn. Sau 2 ngày bị rắn cắn, thân thể anh phù nề tới mức chỉ mặc được chiếc quần xà lỏn. Ông Lộc cho biết: "Lúc anh này đến thì cơ thể đã không còn cảm giác. Chân phù to đi đường rách rướm máu mà chẳng hề có cảm giác đau. Bệnh nhân này ăn ngủ tại nhà tôi mất 15 ngày. Hầu hết các con bệnh đều không có kiến thức gì về phòng chống rắn cắn nhưng rất chủ quan".


Chúng tôi hỏi về kinh phí chữa bệnh, ông cười hồn hậu: "Tôi chỉ lấy tiền công đi tìm thuốc, bình thường khoảng một hai trăm nghìn. Bệnh nhân mà tôi lấy nhiều tiền nhất chỉ có anh Bảy. Cả tiền thuốc và tiền ăn uống sinh hoạt cho người nhà trong vòng một tháng, tôi lấy tròn một triệu". Chuyện về một thầy lang chữa rắn cắn giỏi cứ thế râm ran lan truyền khắp nhiều nơi. Những bài thuốc của ông đơn giản mà đầy hiệu nghiệm. Điều đáng quý là chẳng phải ai cũng tốt bụng như ông, đem truyền bá những bài thuốc ấy cho tất thảy mọi người.


Bạch hoa xà thiệt thảo


Bài 22 - Giải độc gan, viêm gan vàng da ,rắn cắn ... bằng cây bạch hoa xà thiệt thảo


Bạch hoa xà thiệt thảo còn gọi là lưỡi rắn hoa trắng. Cây ra hoa hầu như quanh năm, tập trung chủ yếu vào mùa hè thu.


Bạch hoa xà thiệt thảo thường mọc hoang ở bờ ruộng, sườn núi, hai bên đường đi.


Theo Đông y, bạch hoa xà thiệt thảo có vị ngọt, nhạt, hơi đắng, tính mát, không độc. Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, tiêu thũng, hoạt huyết, lợi niệu, tiêu ung, tán kết.


Dùng chữa viêm đường tiết niệu, viêm amygdal, viêm hầu họng, viêm gan, viêm gan vàng da cấp, sỏi mật, kiết lỵ cấp, mụn nhọt, ung thũng, đòn ngã chấn thương, rắn độc cắn, trẻ em cam tích, ho do phế nhiệt. Ngày dùng 60 - 320g tươi hoặc 40 - 80g khô, sắc với 1 lít nước, còn 300ml chia 2 lần uống trước bữa ăn. Có thể rửa thật sạch với nước muối loãng, giã nát vắt lấy nước cốt để uống.


Dùng ngoài da, giã nát cây tươi, đắp lên chỗ đau. Phụ nữ có thai không nên dùng vị thuốc này. Sau đây là một số bài thuốc có dùng bạch hoa xà thiệt thảo.


Trị gan viêm, vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 40g, hạ khô thảo 40g, cam thảo 16g. Ba thứ rửa sạch, sắc lấy nước đặc, chế thành xi rô để uống trong ngày.


Trị ung nhọt: Bạch hoa xà thiệt thảo 120g, bán chi liên (tươi) 60g, sắc uống. Dùng ngoài, giã nát đắp lên chỗ đau.


Trị viêm amidan cấp: Bạch hoa xà thiệt thảo 12g, xa tiền thảo 12g. Hai thứ rửa sạch, sắc uống.


Trị viêm đường tiết niệu, tiểu buốt, tiểu gắt: Bạch hoa xà thiệt thảo, dã cúc hoa, kim ngân hoa, mỗi thứ 40g, thạch vi 20g. Tất cả rửa sạch, sắc uống thay nước trà.


Trị ho do viêm phổi: Bạch hoa xà thiệt thảo (tươi) 40g, trần bì 8g. Hai thứ rửa sạch, sắc uống trong ngày.


Trị chấn thương: Khi mới bị chấn thương, dùng bạch hoa xà thiệt thảo (tươi) 120g, nước 1 chén, rượu 1 chén. Sắc uống lúc còn ấm.


Trị rắn độc cắn: Bạch hoa xà thiệt thảo 20g, sắc với 200ml rượu, uống trong ngày. Dùng 2/3 thuốc, chia làm 2 - 3 lần uống, còn 1/3 đắp vào vết cắn.


Lương y Hạnh Lâm (Hội Đông y TPHCM)


Những Điều nên biết khi bị rắn độc cắn
Bị rắn cắn thì cấm đi vô nhà, cấm qua cầu. Bị rắn cắn đã chữa lành, chớ nên ăn đậu xanh, coi chừng mất mạng.


Chữa lành rắn cắn vẫn chết vì ăn đậu xanh


Đại tá Trần Văn Dược kể có lần một nạn nhân bị rắn độc cắn, đến trại Đồng Tâm thì tim đã ngừng đập nhưng ngực còn ấm.


Ông dùng mật rắn hổ cấp cứu, người này dần dần hồi phục. Sau đó ông căn dặn nhiều lần là trong vòng 6 tháng, tuyệt đối không được ăn đậu xanh.


Mấy ngày sau, điện thoại cấp báo người bệnh đã trở nặng, hôn mê sâu rồi đột tử.


Truy nguyên nhân, được biết sáng đó người bệnh đi ra ngoài, ăn cháo lòng, trong đó có giá (mầm của đậu xanh).


Theo giải thích của ông chủ trại rắn, bước đầu, mật rắn chỉ có tác dụng phong tỏa chất độc của nọc trong người (lúc này đã nằm sâu trong lục phủ ngũ tạng), không cho nó gây hại, cần phải có thời gian dài để hóa giải, đào thải dần dần.


Đậu xanh lại có dược tính giải độc, đối kháng với mật rắn, nên khi ăn đậu xanh, tác dụng phong tỏa của mật rắn không còn nữa, nọc rắn lại phát huy tác dụng.


Lúc này nó đã nằm sâu trong các bộ phận quan yếu của cơ thể nên người bệnh chết, không cách gì cứu chữa.


Nhầm lẫn chết người vì gặp những con rắn… sún răng


Về những quan niệm kiêng cữ của dân gian như bị rắn cắn không được vô nhà, không được đi qua cầu


Nhiều người cho là mê tín, vô lý.


Đại tá Trần Văn Dược lại cho rằng các quan niệm này có cơ sở khoa học, nhưng do người ta chỉ thấy hiện tượng, không lý giải được bản chất nên mới nói hoang đường.


Theo giải thích của ông, rắn càng độc, tốc độ lan tỏa của nọc rắn càng nhanh, tác động càng mạnh.


Điều trị rắn cắn, thời gian là yếu tố quyết định, đã phát hiện rắn cắn phải sơ cứu và đưa đi cứu chữa ngay mới có cơ may sống sót.


Những người được đưa đi cứu chữa ngay, tỉ lệ sống cao hơn những người rề rà, rắn cắn ngoài đồng, đem về nhà thay quần áo rồi mới đi trị, hoặc chờ đi rước thầy về.


Dân gian so sánh hai tỉ lệ này rồi gút lại thành điều cấm kỵ.


Bị rắn cắn, không được đi qua cầu có lý do sau:


Nếu vết cắn được ngâm trong nước, một phần nọc rắn sẽ bị hòa tan, hàm lượng nọc rắn thấm vào cơ thể sẽ giảm đi.


Ngày xưa đường sá ít, nhiều kênh rạch, chưa có cầu, những trường hợp bị rắn cắn mà lội sông, kênh rạch đi điều trị, tỉ lệ sống sót sẽ cao hơn những người đi trên bờ, nên người ta nghĩ đến chuyện gặp cầu thì không được đi qua, mà phải lội nước.


Câu chuyện rắn “sún răng” cũng là phát hiện thú vị của ông chủ trại rắn:


Dân gian thường xem dấu vết cắn để đoán rắn lành hay rắn độc. Thông thường, răng rắn lành có 3 dấu hình tam giác.


Răng rắn độc có hai dấu. Vết cắn một dấu là của các loại côn trùng khác.


Ấy vậy mà có nhiều người chết oan vì rắn độc cắn chỉ có một dấu răng.


Nhiều thầy thuốc non tay, nhìn thấy một dấu răng, cho là con vật khác cắn nên lơ là, bỏ qua. Vì sao?. Kinh nghiệm sai, hay có loại rắn độc đặc biệt chỉ có một răng?.


Tất cả rắn độc đều có hai răng nanh rỗng ruột nối liền với tuyến nọc trong vòm họng.


Khi cắn, nọc rắn được bơm vào hai răng nanh và truyền vào cơ thể người. Trong điều kiện tự nhiên, nhiều lúc rắn chiến đấu với những sinh vật khác.


Ranh nanh của rắn sắc bén nhưng giòn, dễ gãy, nếu cắn phải những vật cứng hơn sẽ bị gãy răng và có những con rắn độc bị sún chỉ còn một răng. Người ta dễ chết vì những sai lầm tai hại này.




Cấp cứu khi bị rắn cắn


Nửa hột mã tiền sống, mài với nước vo gạo, cạy miệng đổ vô, chừng 15 phút sẽ tỉnh lại. Trước đó cần cột Garô, lấy ống giác hút máu ở vết cắn.



Đào lấy rễ đu đủ, đâm với muối, đắp chổ rắn cắn, nọc sẽ ra hết. Trước đó, cần cột Garô và hút máu ở vết cắn.


Bắt vài con rệp, đem bóp nát, để vô ly, chế chút rượu hay nước cho uống. Bắt thêm vài con nữa, bóp nát, đắp vô chỗ rắn cắn và cột lại. Trước đó, cần cột Garô và hút máu ở vết cắn.




Bạn làm gì khi bị chó dại cắn ,hãy tìm ngay rau và khoai Lang ( trị zona ,trị nhọt sau đầu da lở loét,đầu ngón tay sưng làm mủ,tiễu đường ...)

Rau Lang và khoai Lang là hai loại thực phẩm ăn rất ngon và bổ dưỡng.


Trị bệnh zona (bệnh giời leo): Lá rau lang tươi đủ dùng, một ít băng phiến. Băng phiến tán bột, giã nát cùng với rau lang, đắp lên chỗ bị bệnh.

Trị viêm da độc, viêm tuyến vú: Củ khoai lang tươi đủ dùng. Khoai lang rửa sạch, giã nát, đắp lên chỗ bị viêm. Người có tuyến vú bị mất cảm giác cũng có thể dùng khoai lang rửa sạch, gọt vỏ, thái nhuyễn, giã nát rồi đắp lên vú, 2 tiếng đồng hồ thay 1 lần.

Trị trúng nắng, nôn mửa, tiêu chảy: 100g rau lang. rửa sạch, sắc nước uống.

Trị đau bụng, tiêu chảy: 150g cọng rau lang, một ít muối ăn. Cọng rau lang rửa sạch, thái đoạn, thêm muối xào đến khi vàng, thêm nước sắc vào uống.

Trị đầu ngón tay sưng tấy, viêm, làm mủ: Lá rau lang tươi, đường trắng đủ dùng. Lá giã nát, thêm đường trắng vào, đắp lên chỗ bị thương, mỗi ngày 1 lần.

Trị bị chó dại, rắn, rết cắn, ong chích, bò cạp chích: Lá rau lang non, đường đỏ đủ dùng. Lá rau lang giã nát, thêm đường đỏ vào, đắp lên chỗ bị thương.

Trị mọc nhọt phía sau đầu (vị trí: mụn nhọt mọc từ xương chẩm đến đốt sống thứ 7, đối xứng với miệng): Kkhoai lang sống, rau diếp cá đủ dùng. Khoai lang, rau diếp cá rửa sạch, khoai lang xắt nhỏ, giã nát với rau diếp cá đắp lên chỗ nhọt.

Trị da lở loét, đau, chảy máu: Khoai lang sống đủ dùng. Khoai lang rửa sạch, thái nhuyễn, giã nát, đắp lên chỗ bị loét. Phương thuốc này còn có tác dụng tiêu viêm, cầm máu, giảm đau.

Trị tiểu đường: 75g là rau lang tươi, 150g bí đao. Hầm như rau lang với bí đao để ăn, mỗi ngày 2 lần.

Trị phụ nữ ít sữa: 300g lá rau lang, thịt ba rọi đủ dùng. Cho nguyên liệu vào nấu canh ăn.

Trị hoàng đản thấp nhiệt: Khoai lang đủ dùng. Khoai lang rửa sạch, xắt miếng, nấu chín ăn.

Trị đại tiện khó sau khi sinh: 250g khoai lang, mật ong vừa đủ dùng. Khoai lang rửa sạch, gọt vỏ, xắt miếng nhỏ, đổ nước vào nấu nhừ, thêm mật ong vào ăn.
Những bài thuốc giải độc
 Cấp cứu ngộ độc nặng ai cũng cần phải biết

Dưới đây là 13 bài thuốc ứng cứu hầu hết các trường hợp ngộ độc thức ăn, trúng độc khí, nhiễm độc cơ thể vô cùng hữu ích mà ai cũng cần biết phòng khi dùng đến.


Củ cải chữa trúng độc than củi

1. Cấp cứu ngộ độc thức ăn bằng thuốc Nam:

- Nếu mới ăn trong vòng 1-2 giờ đồng hồ thì dùng biện pháp làm cho nôn ra. Lấy 20g muối ăn hòa với 200ml nước sôi để nguội, cho uống nhiều lần để người bệnh nôn thức ăn ra, nếu chưa nôn được thì lấy đũa hoặc ngón tay móc vào cổ họng để người bệnh nôn.

- Nếu đã ăn sau 2-3 giờ đồng hồ và tinh thần còn tỉnh táo thì uống thuốc cho đi đại tiện ra phân lỏng, thúc cho thức ăn độc mau bài tiết ra ngoài, lấy 30g đại hoàng đun kỹ rồi uống, nếu là người già thì hòa 20g bột sắn dây vào nước nóng cho uống là sẽ lập tức đi ngoài phân lỏng.

- Nếu ăn phải cá, tôm, cua thiu thối thì lấy dấm ăn 100ml, nước đun sôi 200ml uống một lần. Nếu uống phải các đồ uống đã biến chất thì lấy sữa bò tươi hoặc các đồ uống giàu chất anhumin cho người bệnh uống, nếu vẫn chưa tỉnh thì phải đưa đến bệnh viện ngay.

Lưu ý: Giải độc trong thực phẩm: Dùng quả chuối xanh, thái mỏng ăn sống với các loại rau sống khác sẽ trừ được các chất độc ở rau sống hay thịt cá.

2. Chữa trúng độc hơi than bằng củ cải: Đem củ cải ép lấy 1 bát con nước cốt, hòa 30g đường rồi uống.

Lưu ý: 99% lượng can xi trong củ cải tập trung trong phần vỏ, khi chế biến không nên gọt bỏ vỏ.

3. Giải độc, trừ mẩn ngứa bằng canh trạch

- Chạch 30g (bỏ ruột), giun đất khô 10g, rau sam 50g sắc nước uống bỏ bã, ngày 1 lần.

- Chạch 30g, đại táo 15g, gia vị vừa đủ.

Nấu canh ăn ngày 1 thang, liều trong 10 ngày.

4. Giải độc bằng cây mơ lông:

- Dùng rễ và dây mơ lông 100g, đậu xanh 30g.

- Sắc uống làm 3 lần, mỗi lần cách nhau 2-3 giờ.

5. Chữa trúng độc phân hữu cơ bằng bí ngô:

- Lấy thịt quả bí ngô và củ cải lượng bằng nhau, giã nát, vắt lấy nước cho uống. Người bị trúng độc sẽ nôn ra và giải được độc.

- Tuy nhiên sau khi đã cấp cứu bệnh nhân tạm thời như trên cần đưa gấp bệnh nhân đến bệnh viện để giải độc triệt để.

6. Chữa nhiễm độc thức ăn, dị ứng các thức ăn do chất tanh, lạnh bằng rau ngổ: Dùng ngổ tươi từ 40g-80g rửa sạch ăn sống.

7. Gây nôn chữa ngộ độc đường tiêu hóa bằng lá dưa chuột: Theo Đông y dưa chuột vị ngọt, tính lạnh, tác dụng thanh nhiệt, giải khát, lợi tiểu, chữa phù thũng và bệnh kiết lỵ ở trẻ em.

Lấy lá dưa chuột giã vắt lấy nước cốt uống tức thời sẽ nôn thốc nôn tháo những thức ăn gây ngộ độc ra ngoài.

Chú ý: Những người lạnh bụng, thận hư không nên ăn nhiều dưa chuột.

8. Chữa chứng ngộ độc nặng bằng dầu vừng:

Triệu chứng: Bị trúng độc năng, đại tiện ra máu, màu như màu gan. Hoặc nôn ra máu, đau họng, tức nghẹt, bụng chướng.

Lấy 1 bát dầu vừng uống nôn hết chất độc ra là khỏi.

9. Chữa ngộ độc thịt gia súc bằng đậu ván trắng: Đậu ván trắng (bạch biển đậu, đậu mày tằm…) có vị ngọt, tính mát, hòa được với các tạng, trừ được phong, giải được cảm nắng, làm mạnh tỳ, trị được chứng thổ tả, ói mửa…

Đậu ván trắng.

Lấy 1 thăng đậu ván trắng, nướng cháy, nghiền mịn như bột. Mỗi lần dùng 3 đồng cân hòa với nước uống.

10. Giải độc thức ăn bằng dưa bở: Tất cả các bộ phận của cây dưa bở đều có thể dùng làm thuốc. Đặc biệt là bộ phận cuống dưa thường được dùng để gây nôn, giải độc thức ăn.

- Lấy 1g cuống dưa, 3g đậu đỏ hạt nhỏ, nghiền thành bột trộn lẫn rồi uống.

- Có thể chiêu thuốc bằng nước sôi hoặc nước sắc đậu sị (đậu đen) để có tác dụng mạnh.

Sau khi uống loại thuốc lày sẽ có tác dụng gây nôn, giúp bệnh nhân nôn ra chất độc. Trong trường hợp uống liều thuốc này mà vẫn chưa gây nôn, có thể cho tăng liều thêm một chút để có hiệu quả tốt nhất.

11. Chữa nhiễm độc chì bằng đậu xanh

Mỗi ngày dùng 120g đậu xanh, 15g cam thảo đun thành canh.

Chia làm 2 lần uống với 300mg vitamin C. Uống liền 15 ngày là một liệu trình chữa trị.

Điều trị liên tục hai tuần liền là cơ bản có thể chữa được bệnh.

12. Chữa ngộ độc sắn bằng đậu xanh:

Triệu chứng: Mới đầu cảm thấy chóng mặt, nhức đầu, choáng váng, rạo rực khó chịu, tiếp theo là nôn mửa, có người bị đau bụng, dần dần sắc mặt tái đi, khó thở, thở nhanh và nóng.

Lấy một bát đậu xanh giã nát, đun sôi để nguội. Lọc nước đó chia làm 2 phần, uống cách nhau 1-2 giờ sẽ giải được độc.

Chữa ngộ độc cua cá bằng quả trám: Trám có 2 loại là trám trắng co vỏ màu xanh lục và trám đen có vỏ màu tím thẫm. Quả trám vị chua, tính ấm, có tác dụng giải khát, thanh giọng, giải độc cá, giải say rượu mê man, nhức đầu. Trám dùng làm thuốc thường là trám trắng.

Lấy trám trắng 30g sắc nước uống. Cách này cũng dùng cho trẻ em lên sởi và chữa bệnh hoạt huyết.

13. Chữa ngộ độc do ăn nhầm các loại cá có độc

- Lá tía tô 40g, cho 2 bát nước sắc còn 1 bát uống giải độc.

- Đông qua (cây bí) còn tươi 40g, giã nát, vắt lấy nước, uống nhiều lần trong ngày.

- Vảy cá các loại 50g, đốt thành tro, lấy 1 thìa canh hòa với nước uống.

- Đậu đen 100g nấu với 1 lít nước cho nhừ uống nhiều lần trong ngày.



Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Thần tài và Ông địa – bàn thờ cúng gì, hướng nào…?


Thần tài và Ông địa – bàn thờ cúng gì, hướng nào…? 
Bàn thờ Thần tài chỉ được lập ở những nơi góc nhà, xó nhà chứ không phải nơi sạch đẹp, trang trọng như bàn thờ Tổ Tiên hay bàn thờ Thổ Công. Bản chất Trường Khí phòng thờ (hay bàn thờ) thuộc tính Âm, không ưa sự phô trương, mang tính đối nội (ngay cả trong ngày giỗ hay Tết thì thờ cúng cũng là việc riêng của gia đình đó, người ngoài đến muốn thắp nén nhang phải xin phép gia chủ).Về Ngũ Hành thì bàn thờ thuộc hành Hỏa và Mộc là 2 hành hướng lên cao và cần sự chăm sóc mỗi ngày. Trừ bàn thờ Ông Địa Thần Tài là tín ngưỡng dân gian mọi nhà giống nhau, đặt gần cửa để nghinh tiếp tài lộc, còn lại bàn thờ gia tiên và tôn giáo riêng của mỗi gia đình (thờ Phật, thờ Chúa…) nên mang tính hướng nội, không cần phải đặt ngay trong phòng khách.
Ngoài bàn thờ gia tiên, ở Nam bộ, người ta còn có trang thờ, bàn thờ ông Táo, thờ ông Địa, ông Thần Tài. Trang thờ được bố trí ở trên cao, nơi gian giữa. Trên trang thờ có đôi chân đèn nhỏ, lư hương, bình bông, mâm dĩa trái cây, chung rượu, tách nước.
Bàn thờ ông Táo được đặt ở sau bếp. Đây cũng chính là vị “nhất gia chi chủ”, có nhiệm vụ coi sóc việc gia cư, định họa phước, trừ ma diệt quỷ.
Riêng các vị Thần Tài, Ông Địa chỉ thờ dưới đất, trong góc hẹp, được lý giải bởi một truyền thuyết sau: Ngày xưa, có một người lái buôn tên là Âu Minh khi đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt. Âu Minh đem Như Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài năm là giàu to. Về sau, đúng vào một hôm ngày tết, Âu Minh giận, bèn đánh Như Nguyệt. Sợ hãi, Như Nguyệt chui vào đống rác rồi biến mất. Từ đó, nhà Âu Minh sa sút dần, chẳng mấy lúc nghèo kiết.
Người ta bảo Như Nguyệt là Thần Tài và người ta lập bàn thờ Như Nguyệt. Từ đó, ngày tết ta có tục kiêng hốt rác ba ngày đầu năm vì sợ hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác đổ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt, tiến tới được.
Cũng có quan niệm cho rằng Thần Tài là một phiên bản của Thần Đất (Thổ Địa) – vị thần hộ mệnh của xóm làng, cai quản vùng trời, đất đai, phù hộ con người và gia súc trong xóm làng, mùa màng bội thu. Khi những cư dân từ miền Trung vào khai khẩn vùng đất Nam bộ, họ gặp phải rất nhiều khó khăn (thiên nhiên khắc nghiệt, thời tiết thất thường, thú dữ hoành hành…) và ý niệm trông mong vào các vị thần bắt đầu hình thành để giúp họ trấn an trên con đường mưu sinh.
Thần Đất cũng là một trong các vị thần bản địa được họ mang vào phương Nam để thờ phụng, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Dần dà về sau, thương nghiệp phát triển, kinh tế hàng hóa phổ biến, nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển, người ta cần vàng và tiền bạc hơn. Lúc đó, vàng, tiền bạc là thước đo của cuộc sống sung túc và nghèo hèn nên Thần Tài xuất hiện. Thần Tài chẳng qua là một dạng thức khác của Thần Đất. Nếu Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu, thể hiện tính lý nông nghiệp thì Thần Tài là vị thần trông coi tiền tài, vàng bạc, là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp.
Qua các thời kỳ, hình tượng của Thần Tài có ít nhiều thay đổi. Có lúc tượng Thần Tài đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay để trên gối, mặc áo thụng, chân đi hài đảo sen, tay cầm túi vải để đựng tiền. Lại có lúc tượng Thần Tài ngồi với tư thế chân co, chân xếp, tay cầm bó lúa và đầu để trần. Sau này có loại tượng Thần Tài cầm xâu tiền hoặc cầm một thoi vàng xuồng.
Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của Thần Đất, nhưng tựu trung, cả hai vị thần vẫn có quyền uy giúp cho con người làm ăn phát đạt, tài lai lộc tấn. Vì vậy, cư dân Nam bộ hiếm khi thờ cúng Thần Tài một mình, mà thường thờ cúng chung với Thổ Địa – vị thần cai quản đất đai, nhà cửa. Người ta không chỉ cúng Thần Tài vào ngày tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán. Người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho vị thần này chu đáo thì ông mới phù hộ. Sáng sớm, khi mở cửa bán hàng người ta thắp hương cầu khẩn Thần Tài “độ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho Ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm.
Vào ngày tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.
SẮP ĐẶT BÀN THỜ THẦN TÀI – ÔNG ĐỊA

Theo sơ đồ trên ta thấy : Trong cùng bàn thờ , dán trên vách là một tấm Bài vị như đã nói ở phần trên . Hai bên , bên trái ( từ ngoài nhìn vào ) là ông Thần tài , bên phải là Ông Địa . Ở giữa hai ông là một hũ gạo , một hũ muối và một hũ nước đầy . Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay . Giữa bàn thờ là một bát nhang , bát nhang này khi bốc phải theo một số thủ tục nhất định ( sẽ nói rõ ở phần sau ) . Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ , các bạn nên dùng keo 502 dán chết bát nhang xuống bàn thờ. Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát nhang gọi là bị động bát nhang , mọi chuyện trở nên trục trặc liền . Theo nguyên lý ” Đông Bình – Tây Quả ” , các bạn đặt lọ hoa bên tay phải , đĩa trái cây bên tay trái ( Nhìn từ ngoài vào ) . Thường nên cắm hoa hồng , hoa cúc , hoa đồng tiền . Trái cây nên xắp ngũ quả ( 5 loại trái cây ) . Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng , người ta có một cái khay xếp 5 chén nước hình chữ Nhất – , các bạn nên bỏ khay và xếp 5 chén nước thành hình chữ thập , tượng trưng cho ngũ phương , và cũng là tương trưng cho Ngũ Hành phát sinh phát triển . Ông Cóc để bên trái ( Từ ngoài nhìn vào ) , sáng quay Cóc ra , tối quay Cóc vào . Ngoài cùng trên mặt đất , các bạn nên chọn một cái tô sứ thật đẹp , nông lòng , đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước ( Cái này làm Minh Đường Tụ Thủy – Một cách giữ tiền bạc khỏi trôi đi .
Một số người trong miền Nam , khi cúng Thần Tài – Ông Địa , thường cúng kèm theo một đĩa tỏi  có 5 củ tươi nguyên đẹp đẽ hay nhiều khi là cả một bó tỏi . Họ cho rằng : ông địa thích tỏi lắm nên ta đặt trước mặt ổng là đúng cách , cho ổng có phương tiện để bài trừ ” các đạo chích vong binh ” ám muội . Người âm chớ cũng có người tốt kẻ xấu như thường , giống y người dương mình vậy . Tuy nhiên , qua nghiên cứu , dienbatn cho rằng , họ dùng bó tỏi đó để phòng chống các Tà sư làm ác , phá hoại bàn thờ nhà người ta bằng Bùa , Ngải . Tỏi có tác dụng tránh được điều đó ( Các người luyện Bùa , Ngải thường kiêng ăn Ngũ Vị Tân : Hành , Hẹ , Tỏi ,nén , Kiệu ) .
CÁCH ĐẶT BÀN THỜ :
Nguyên tắc đặt bàn thờ Thần Tài – Ông Địa là phải từ bàn thờ , ông Địa và Thần Tài phải quán được hết sự vào ra của khách . Có thể đặt theo hướng tốt của chủ nhà , có thể đặt theo cách hứng lấy dòng Khí bên ngoài khi vào nhà . Có thể dùng phương pháp Điểm Thần Sát để tính , chọn lấy các cung THIÊN LỘC ,QUÝ NHÂN  để đặt vị trí bàn thờ . HƯỚNG BÀN THỜ THEO CUNG TỐT CỦA GIA CHỦ.
1/ THIÊN LỘC :
Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh , đang lên phơi phới , là đúng Đạo sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá .
Lộc là cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt . Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng tiến , điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú lại khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh – Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có Lộc cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên .Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung tài , là Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp .
2/ QUÝ NHÂN : Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần , hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động , chí tôn mà có thể trấn được phi phù .
Nhà có chính môn ra Quý là Đại cát khánh , Gia đạo bình an , hòa thuận , hỉ Khí đầy nhà , luôn gặp may mắn . Quý nhân là sao cứu trợ , là Thần giải tai ách , nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ , gặp ách có người giải cứu , gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh , công danh thành đạt , dễ thăng Quan , tiến chức , học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp . Quý nhân gặp sinh , Vượng , thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên , tướng mạo phi phàm , tính tình nhanh nhẹn , lý lẽ phân minh , không thích mẹo vặt , thẳng thắn mà ôn hòa , khôi ngô tuấn tú . Nếu ngộ Không vong , Tử , Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều , hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh , bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực , người và gia súc bị tổn thất , kiện cáo , thị phi . Lại hay sinh người tính tình cố chấp , bảo thủ mà suốt đời vất vả , không nên người . Quý nhân ra Thai Khí , nếu lại ngộ Đào hoa thì nam , nữ tuy thông minh , tuấn tú , nhưng nam thì hiếu sắc , nữ thì dâm đãng , làm bại hoại Gia phong , lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải , tự vẫn vì tình .

Quý nhân là Cát Khí rất tôn quý , nên gia vào cung nào cũng rất tốt , ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có Âm Quý nhân là đại cát khánh , như vậy sẽ được âm Linh phù trợ . Không được để phòng tắm , nhà vệ sinh vào cung Quý nhân , vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên , nữ nhân thiếu máu , động thai , sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục , làm điếm , cuối cùng phải tự vẫn . Tài sản tiêu tan , yêu ma hoành hành , gia đình có người bị cướp bóc , chém giết máu me thảm khốc , bệnh tật đau khổ triền miên . Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp khó lường .
Nhưng muốn đặt như thế nào thì trước mặt bàn thờ phải quang đãng , sạch sẽ ( Không như nhiều người nghĩ và đặt bàn thờ vào gầm , vào chỗ tối tăm ) . Ông Địa và Thần tài tuy thờ dưới đất nhưng tính rất thích thơm tho , sạch sẽ . Thường nên để sẵn một lọ nước hoa , lâu lâu lại xịt vào bàn thờ cho thơm .
dienbatn sưu tầm được bài này của NCD ( TRƯỜNG MINH – Người Cô Đơn ) , không nhớ nguồn , các bạn đọc tham khảo :
SINH TÀI VƯỢNG VỊ VÀ VIỆC ĐẶT THẦN TÀI
Hôm nay tôi muốn bàn về vấn đề mà có lẽ từ nhà thường cho đến cơ sở kinh doanh mua bán đều quan tâm : Đó là phương Sinh Vượng và cách đặt Tài Thần.
Phương vị này còn được gọi là ” TÀI VỊ ” , nó khác với phương Chính Thần trong Huyền Không học. Có 3 thuyết nói về phương vị này khác nhau :
_ Thuyết thứ nhất là theo trường phái Huyền Không , chọn phương Chính Thần làm phương của TÀI VỊ
_ Thuyết thứ hai là theo Phi Tinh của Huyền Không , cho rằng phương của Tam Bạch phi đến mới là phương của TÀI VỊ. Tam Bạch chính là : Nhất Bạch , Lục Bạch và Bát Bạch
_ Thuyết thứ ba là chọn phương chéo với cửa ra vào làm phương TÀI VỊ.
Riêng bản thân NCD thì chọn theo thuyết thứ 3. Hai thuyết trên nói cũng có lý nhưng không thích hợp lắm. Nếu 1 lúc nào đó Vương Khí Chính Thần hay Tam Bạch Tinh phi đến phương vị Cửa , chẳng lẽ đem Tài Thần ra đặt ở đấy à ? Huyền Không Phi Tinh có nhiều điểm rất hay , nó có thể giải thích các hiện tượng động đất , sụp lỡ , hỏa hoạn , trộm cướp , chết người , đau bệnh , làm ăn thua lỗ…vv…mà các trường phái Bát Trạch Minh Cảnh và Dương Trạch Tam Yếu không thể giải thích thỏa đáng. Vì các trường phái kia thuộc TĨNH , các phương vị , an sao đều cố định nên gặp nạn tai thì không thể nói được khi nhà và Sao đều vẫn tốt so với mạng gia chủ như lúc đầu. Còn trường phái Huyền Không thì các Phi Tinh luân chuyển , khó có được năm tháng ngày giờ trùng Sao lại như nhau ( năm và tháng còn có thể nhưng thêm ngày và giờ thì rất hiếm hoi ). Lại thêm khi các sao đi đơn lẻ thì khác , đi kèm với Sao khác thì có thể ý nghĩa biến đổi , hoặc còn ảnh hưởng với Sao của Trạch Vận khác nhau mà cho kết quả khác nhau , Thiên hình Vạn trạng. Sự huyền diệu của Phi Tinh là vậy , nhưng không phải lúc nào cũng cứng nhắc các Vượng Khí , Phi Tinh vào Dương Trạch , phải biết lúc nào áp dụng PP nào cho thích hợp. Không phải vô tình mà người ta bố trí bàn làm việc nơi góc chéo với cửa ra vào , bởi nó là nơi tập trung Quyền lực trong 1 căn phòng .
Theo khoa PT thì tại phương TÀI VỊ này , người ta thường đặt các cây xanh lá to hay các tượng Tài Thần . Phương TÀI VỊ này có 1 số điều nên và không nên như sau :

1/. Các điều NÊN ở TÀI VỊ :
_ Nơi phương TÀI VỊ nên sáng sủa , quang minh , không thể để tối ám. Sáng là năng lượng Dương , thích Hợp với Dương Khí. Sinh Khí không ưa nơi tối tăm , nên phương này tuyệt đối không nên để tối , nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm đèn
_ Nơi phương TÀI VỊ nên có Sinh Cơ , tức là chỉ nơi đây thiết bày cây xanh là tốt , phải nhớ là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi. Nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn ( nê thổ ) , không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên kiếm các loại cây lá to , dầy , lá xanh mãi như cây Vạn Niên Thanh chẳng hạn
_ Nơi phương TÀI VỊ tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy , để cả nhà thường xuyên ngồi ở đó , hít thở không khí của TÀI VỊ hay nói cách khác là được thấm nhuần nguồn TÀI KHÍ nơi đó , sẽ giúp ích cho Tài Vận ngườitrong nhà
_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt giường ngủ là rất thích hợp. Đến đây thì có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao các sách bày bán trên thị trường luôn khuyên ” đặt giường chéo góc với cửa phòng ” , có điều họ không nói rõ ra nguyên ủy bên trong thôi. 1/3 thời gian trong ngày con người nằm ngủ nghĩ nơi đó , thường xuyên hít thở nguồn TÀI KHÍ nơi đó cũng rất tốt cho Tài Vận vậy.
_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt vật hay biểu tượng Cát lành. Bởi phương này là nơi VƯợng Khí ngưng tụ , nếu ta đặt thêm 1 biểu tượng Cát Lành thì tốt càng thêm tốt , như gấm thêu thêm hoa vậy.

2/. Các điều KỴ của TÀI VỊ :
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách , kệ sắt , máy móc nặng sẽ làm tổn hại đến Tài Vận của phòng đó
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ THỦY. Đấy cũng là lý do vì sao ở trên kia lại bảo nơi đây không thích hợp cho các loại cây trồng trong nước. Vì nơi đây là Cát Thần tọa vị , nay ta đem nước đến là Cát Thần lạc Thủy , khéo hóa ra vụng đấy !
_ Nơi phương TÀI VỊ phía sau nên có tường che chắn , không thể trổ cửa , trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục ” Tàng phong Tụ khí ” trong PT , Tài Vận mới tụ được
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn , cạnh tủ….vv..sẽ làm tổn hại Tài Khí nơi đó
_ Nơi phương TÀI VỊ là nơi Cát Thần tọa vị nên ĐẠI KỴ ô uế , dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế , bụi bậm nơi đây
_ Nơi phương TÀI VỊ không nên để tối tăm , vì u tối thì Sinh Khí không sinh sôi được , sẽ ảnh hưởng đến Tài Vận , sinh kế

3/. Tài Thần
Nói đến Tài Thần thì có lẽ không ai không biết đấy là vị Thần ban phước lộc , tiền tài , của cải cho mọi người. Thần Tài mà hôm nay NCD đề cập đến không phải là Địa Chủ Tài Thần mà mọi người hay thờ. Địa Chủ Tài Thần là 1 khuôn bài vị với 2 dòng chữ ở giửa là : NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN mà mọi người hay thờ , 2 bên có 2 câu đối ( ” Kim chi sơ phát diệp _ Ngân thụ chánh hoa khai ” , hay là ” Thổ vượng nhân tòng vượng _ Thần an trạch tự an ” , hay là ” Thổ năng sinh Bạch ngọc _ Địa khả xuất Hoàng kim ” ). Ngày xưa người ta thường thờ Địa Chủ Tài Thần bên trong , bên ngoài thờ Môn Thần ; ngày nay do nhiều nơi không cho thờ cúng bên ngoài nên chỉ còn thờ mỗi Địa Chủ Tài Thần bên trong , coi như vị Thần này kiêm luôn việc bảo hộ cho Trạch Chủ , không cho tà ma xâm nhập.
Tài Thần mà NCd đề cập ở đây là tượng Văn-Võ Tài Thần theo quan niệm người Hoa ( vì vốn dĩ thuật PT truyền từ TQ sang đây nên NCD cũng soạn theo tư liệu gốc của người Hoa vậy ).

a/VĂN TÀI THẦN :
Chia làm 2 là Tài Bạch Tinh Quân và Tam Đa Tinh
_ Tài Bạch Tinh Quân : Ngoại hình như 1 vị trưởng giả giàu có , mắt trắng râu dài , người mặc áo gấm thắt đai ngọc , tay trái ôm 1 thỏi Kim Nguyên Bảo ( thỏi vàng mả người ta hay để chưng nơi Thần Tài , nó cũng là 1 dụng cụ hóa sát trong PT đó chứ ) , tay phải ôm tờ giấy cuốn lại có in dòng chữ ” Chiêu Tài Tiến Bảo ”
Theo truyền thuyết ông vốn là Thái Bạch Kim Tinh trên thượng giới , chức tước là ” Đô Thiên chí phú Tài Bạch Tinh Quân ” chuyên quản tiền tài vàng bạc của thiên hạ. Nên người ta hay đặt tượng ông nơi TÀI VỊ , có người còn thờ ông nữa (TƯỢNG DI LẶC PHẬT VƯƠNG )


_ Tam Đa Tinh : Nghe tên thì thấy lạ , nhưng thật ra đó là Phước Lộc Thọ Tam Tinh đấy thôi.
Phúc Tinh tay ôm đứa bé tượng trưng có con thì vạn sự đủ phúc khí. Lộc Tinh mặc triều phục sặc sỡ , tay ôm Ngọc Như ý , tượng trưng thăng quan tiến chức , thêm tài tăng lộc. Thọ Tinh tay ôm quả đào thọ , mặt lộ vẻ hiền hòa , hạnh phúc tượng trưng cho an khang trường thọ. Trong 3 vị chỉ có Lộc Tinh mới là Tài Thần , nhưng do xưa nay Tam vị nhất thể đi chung không rời , nên người ta luôn làm chung tượng của 3 vị. Nếu đặt cả Tam Tinh vào TÀi VỊ thì cả nhà an vui , hạnh phúc , phúc lộc song thu
Những người giữ chức văn , những người làm công nên đặt tượng Văn Tài Thần nơi TÀI VỊ , hay thờ Văn Tài Thần
Các tượng Văn Tài Thần nên đặt quay mặt vào

b/ VŨ TÀI THẦN :
Cũng chia làm 2 là : Triệu Công Minh miệng đen mặt đen , và Quan Thánh Đế ( còn gọi là Quan Công ) mặt đỏ râu dài
_ Triệu Công Minh : Vị thần này nếu quý vị nào có xem qua truyện Phong Thần ắt biết tiểu sử ông. Sau khi tử trận lên bảng Phong Thần , ông được Khương Tử Nha sắc phong làm ” Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn chân quân ” thống lĩnh 4 vị Thần : Chiêu Bảo , Nạp Trân , Chiêu Tài , Lợi Thị
Ông vừa giúp tăng tài , tiến lộc vừa có thể hàng ma phục yêu , nên 1 số người Hoa cũng thích thờ ông , hay đặt tượng ông nơi TÀi VỊ , vừa giúp vượng tài , vừa giúp bình an.
_ Quan Thánh Đế : Nói đến Ngài , có lẽ không cần xem truyện Tam Quốc thì ai cũng từng nghe và biết. Gần như 99% người Hoa đều có thờ Quan Thánh Đế trong nhà cả ! Ông không không chỉ tượng trưng chio Chính Khí sáng lòa , mà còn có thể giúp cho người chiêu tài , tiến bảo , làm ăn thuận lợi , tai qua nạn khỏi , trừ tà hộ thân.
Những người làm quan võ , theo nghiệp lính , những ông chủ kinh doanh nên thờ Vũ Tài Thần hoặc đặt tượng Vũ Tài Thần nơi phương TÀI VỊ.
Các tượng VŨ Tài Thần nên đặt hướng ra cửa.

Trên nóc bàn thờ Thần Tài – Ông Địa , người ta thường đặt tượng của Di Lặc Phật Vương hay các câu chú Phạn tự ( tượng trưng cho cơ quan chủ quản các Thần ). Mục đích là để có sự quản lý , không cho các vị Thần làm điều sai trái .
( sưu tầm )

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2014

Hướng dẫn lấy quẻ dịch !


Chào các bạn !
Muốn lấy quẻ dịch cho chuẩn làm theo thứ tự như sau :
 (Chỉ dùng cho những bạn không biết gì về dịch nhưng có nhu cầu bói dịch , cùng các bạn dù có kiến thức về dịch nhưng khi nhờ bốc sư xem cho mình cũng nên dùng cách này , chỉ vì mong có được quẻ chuẩn để bốc sư xem cho chuẩn , tránh trường hợp bốc sư dù cao tay ấn nhưng không có quẻ chuẩn để xem thì việc xác định thành bại của việc muốn hỏi chẳng còn giá trị ý nghĩa gì nữa  ) .


  • Kiếm đủ  3 đồng tiền giống nhau , cùng kích cỡ như nhau , tiền bằng đồng thời cổ càng tốt ! ( Các bạn có thể lấy một tấm giấy bìa cứng , cắt thành 3 mảnh bằng nhau sau đó làm dấu một mặt là âm , một mặt là dương sử dụng thế 3 đồng tiền cũng được ) . Với một cây viết và  giấy . Rửa tay , rửa mặt sạch sẽ , thắp hương cầu thần , khẩn  thật thành tâm , giữ cho lòng yên tĩnh trước khi xin quẻ .
  • Khấn xin điều muốn biết sau đó gieo 3 đồng tiền xuống đất hay xuống một cái dĩa cho nó rơi xuống một cách khách quan , tiền thì có một mặt số hay một mặt hình , gieo thứ tự lần lượt sáu lần , mỗi lần ghi rõ vào giấy ( BAO NHIÊU HÌNH , BAO NHIÊU SỐ ) ( THỐNG KÊ THÌ CÓ BỐN TRƯỜNG HỢP , thứ nhất ba đồng là hình , thứ hai ba đồng là số , thứ ba là hai số một hình , thứ tư hai hình một số ) . Gieo 6 lần theo thứ tự như  dưới đây :
  1. Cầu khấn thần linh . Tung tiền lần thứ nhất bao nhiêu hình bao nhiêu số ghi ra . ( vd : HHS ) , hình ,hình , số
  2. Cầu khấn thần linh . Tung tiền lần thứ hai  bao nhiêu hình bao nhiêu số ghi ra . ( vd : HSS ) , hình , số , số
  3. Cầu khấn thần linh . Tung tiền lần thứ ba  bao nhiêu hình bao nhiêu số ghi ra . ( vd : HHH ) , hình , hình , hình
  4. Cầu khấn thần linh . Tung tiền lần thứ tư  bao nhiêu hình bao nhiêu số ghi ra . ( vd : SSS ) , số , số , số
  5. Cầu khấn thần linh . Tung tiền lần thứ năm  bao nhiêu hình bao nhiêu số ghi ra . ( vd : HSS ) , hình , số , số
  6. Cầu khấn thần linh . Tung tiền lần thứ sáu   bao nhiêu hình bao nhiêu số ghi ra . ( vd : SHH) ,  số , hình , hình .
  • Ghi ngày giờ  năm tháng làm việc này !
  • Ghi rõ tâm niệm thật lòng muốn biết , dù thầy xem dở hay giỏi cũng đừng có thái độ thử thầy thần lình quở trách rất xui , thứ nữa chuyện tự mình biết là bất chính thì đừng hỏi thần làm gì cho mệt , lạm dụng quyền năng của trời đất làm mấy chuyện đánh banh cá độ thì nghiệp cũng không nhỏ !
  • Cuối cùng chúc các bạn lấy được một quẻ chuẩn để thầy xem giúp ích một cách  thiết thực cho mình !
Các cách lấy quẻ khác !
Bói dịch bằng lá cây
Bói dịch là một môn hỏi thần . Bởi vậy khi muốn xem bói phải hết sức thành kính .Không được xem chơi . Chuyện quan trọng ch
ính mình  không thật sự biết mới xem . Có tâm thành , thần sẽ linh ứng . Nếu không như thế thì có tội với Thần linh rất xui xẻo cho cho người xem . Và cả người giải quẻ nửa . Các bạn lưu ý !!!
 VẬY :
A)Nếu bạn nào muốn xem bói ,hãy làm theo các bước sau đây :
 Tắm rửa sạch sẽ , giữ tâm hồn thanh thản , tìm nơi vắng vẻ không gian yên tĩnh , thành tâm thắp hương cầu Trời khẩn Phật (nếu các bạn nào theo công giáo ,hay các đạo giáo khác thì tùy theo đức tin của mình mà cầu nguyện điều mình muốn biết hay mong muốn )
B)LÀM THEO CÁC BƯỚC SAU ĐÂY :
Tìm nơi vắng vẻ thanh tịnh ; Bứt 3 cái lá cây tương đối bằng nhau ; Qui định mặt lá hướng lên trời là ngữa (là dương ) , mặt ở dưới là sấp (là âm ) ; Sau đó :

  1. Cầu nguyện điều mình muốn biết lần thứ nhất ; Sau đó tung lên trời lần thứ nhất khi rớt xuống đất , xem thấy bao nhiêu sấp , bao nhiêu ngữa ...GHI RA CHO BỐC SƯ  BIẾT
  2. Cầu nguyện điều mình muốn biết lần thứ hai ; Sau đó tung lên trời lần thứ hai khi rớt xuống đất , xem thấy bao nhiêu sấp , bao nhiêu ngữa ...GHI RA CHO BỐC SƯ  BIẾT
  3. Cầu nguyện điều mình muốn biết lần thứ ba ; Sau đó tung lên trời lần thứ ba khi rớt xuống đất , xem thấy bao nhiêu sấp , bao nhiêu ngữa ...GHI RA CHO BỐC SƯ  BIẾT
  4. Cầu nguyện điều mình muốn biết lần thứ tư ; Sau đó tung lên trời lần thứ tư khi rớt xuống đất , xem thấy bao nhiêu sấp , bao nhiêu ngữa ...GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT
  5. Cầu nguyện điều mình muốn biết lần thứ năm ; Sau đó tung lên trời lần thứ năm khi rớt xuống đất , xem thấy bao nhiêu sấp , bao nhiêu ngữa ...GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT
  6. Cầu nguyện điều mình muốn biết lần thứ sáu ; Sau đó tung lên trời lần thứ sáu khi rớt xuống đất , xem thấy bao nhiêu sấp , bao nhiêu ngữa ...GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT
Tổng cổng tất cả sáu lần ...ghi rõ ràng thứ tự từng lần một ... bao nhiêu lá sấp , bao nhiêu lá ngữa .
C)Đặt 1 câu hỏi về điều muốn biết ... Cho bốc sư giải .
D) Ghi rõ ngày giờ lúc làm việc này 
Bói dịch bằng bài .
Bói dịch là một môn hỏi thần . Bởi vậy khi muốn xem bói phải hết sức thành kính .Không được xem chơi ,chuyện quan trọng ,không biết mới xem . Có tâm thành thần sẽ ứng .
Nếu không như thế thì có tội với Thần linh rất xui xẻo cho cho người xem . Và cả người giải quẻ nửa . Các bạn lưu ý , vậy  :
Nếu bạn nào muốn xem bói ,hãy làm theo các bước sau đây :
  •  Tắm rửa sạch sẽ , giữ tâm hồn thanh thản , tìm nơi vắng vẻ không gian yên tĩnh , thành tâm thắp hương cầu Trời khẩn Phật (nếu các bạn nào theo công giáo ,hay các đạo giáo khác thì tùy theo đức tin của mình mà cầu nguyện điều mình muốn biết hay mong muốn
  •  Lấy 1 bộ bài mới và làm theo thứ tự sau :
  1.  Sóc lên cho đều lần thứ nhất ,sau đó rút 3 cây lật ra xem thử là bao nhiêu đen bao nhiêu đỏ ... GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT .
  2.  Sóc đều lần thứ hai ,sau đó cũng rút 3 cây lật ra xem thử là bao nhiêu đen bao nhiêu đỏ ... GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT 
  3.  Sóc đều lần thứ ba ,sau đó cũng rút 3 cây lật ra xem thử là bao nhiêu đen bao nhiêu đỏ ... GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT .
  4.  Sóc đều lần thứ tư ,sau đó cũng rút 3 cây lật ra xem thử là bao nhiêu đen bao nhiêu đỏ ... GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT .
  5.  Sóc đều lần thứ năm ,sau đó cũng rút 3 cây lật ra xem thử là bao nhiêu đen bao nhiêu đỏ ... GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT .
  6.  Sóc đều lần thứ sáu ,sau đó cũng rút 3 cây lật ra xem thử là bao nhiêu đen bao nhiêu đỏ ... GHI RA CHO BỐC SƯ BIẾT .
Tổng cổng tất cả sáu lần ...ghi rõ ràng thứ tự từng lần một ... bao nhiêu lá bài đen ,lá bài đỏ ... chỉ cần đen đỏ ... không cần ghi lá bài gì . ( Các bạn cũng có thể dùng bộ cờ tướng xào cho đều , sau đó lần lượt lấy ra thứ tự 3 quân cờ mỗi lần , ghi rõ mỗi lần là bao nhiêu quân xanh , bao nhiêu quân đỏ , lần lượt sáu lần tương tự như trên )
  • Ghi rõ tâm niệm muốn biết  về điều muốn biết ... Cho bốc sư giải .
  •  Ghi rõ ngày giờ lúc làm việc này
  • Chúc các bạn may mắn !

Xem quẻ công cụ internet xem hướng dẫn tại đây !




Thứ Tư, 8 tháng 10, 2014

PHƯỚC DUYÊN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ĐẤT KẾT

PHƯỚC DUYÊN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ĐẤT KẾT 
( Trích từ địa lý Tả-ao )

(85) Ngôi đế vương mặt trời chẳng giám
(86) Huyệt công khanh không kiếm ai cho
(87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ
(88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm
(89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng
(90) Dưới bình dương nửa tháng cũng đi
(91) Minh sinh ám tử vô di
(92) Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn
(93) Quả nhiên huyệt chính long chân
(94) Tiêu sa nạp thủy chớ lầm một ly
(95) Táng thôi phúc lý tuy chi
(96) Trâm anh bất tuyệt thư thi gia truyền Những kiểu đất quá lớn sinh được Thánh Vương đã đành không dám nghĩ đến, mà ngay những kiểu đất Đế vương những người ít đức cũng nên làm ngơ để đó cho Trời sắp đặt.
(85) Ngôi đế vương mặt trời chẳng dám Tuy nhiên ngôi Công hầu, Khanh, Tướng không phải là không có; những vị phúc đức có thể hy vọng lắm. Ngay những người phúc đức vừa phải nếu được ngôi đất Công hầu, Khanh, Tướng mà biết tu thân tạo đức thì chỉ gặp gian truân trắc trở một thời gian đầu rồi sau cũng được hưởng đất đó.
(86) Huyệt công khanh không kiếm ai cho Ở những tay Long Hổ, Án. Sa những ngôi đất Đế Vương có rất nhiều đất kết Công hầu, Khanh, Tướng. Nó là kiểu bàng của kiểu chính.

(87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ
(88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm
(89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng
(90) Dưới bình dương, nửa tháng cũng đi Hoa là phần tinh túy của cây do nhựa cây tạo ra thì đất có tú khí ở bên trong cũng có thể tụ kết ở đâu để hiện ra huyệt kết: Oa, Kiềm, Nhũ, Đột, những huyệt kết này là tinh hoa của đất hay là hoa địa của đất. Đất khai hoa là kiểu đất kết, nếu thấy thì nên làm tùy duyên, tùy đức, cho những ai có duyên có đức.
(87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ
(88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm Đã làm thì có ngại gì xa xăm mệt nhọc, ngại gì sơn cước hay bình dương:
(89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng
(90) Dưới bình dương nửa tháng cũng đi Kiếm được đất tốt rồi muốn để mả phải điểm huyệt. Điểm huyệt là kiếm chỗ nào tụ khí ở huyệt tràng mà chôn xương người chết xuống đó. Khi điểm huyệt phải phân kim làm sao thu được cái sáng, cái sinh của Sa lẫn Thủy và tiêu được khí xấu khí ác của sa, thủy đi. Làm như vậy gọi là: thu minh sinh, phóng ám tử. Những sách địa lý viết tiếp của chúng tôi sẽ nói đến phân kim
(91) Minh sinh ám tử vô di Việc phân kim, tức thu minh sinh phòng ám tử rất khó khăn nhọc nhằn, vì phải cân nhắc cho thật kỹ. Càng kỹ càng tốt, cần chỉ làm một lần xong tác phẩm đó chứ không thể để mả xuống rồi thấy sai lại đào lên làm hai.

(92) Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn Nếu có huyệt tốt mà tiên sa nạp thủy rất đúng không lầm lẫn gì cả thì:
(93) Quả nhiên huyệt chính long chân
(94) Tiêu sa nạp thủy chớ lầm một ly Và sau khi táng xong ta phải mừng là phúc nhà đã giúp cho được đất có một phần và nhờ sự tận tâm của thầy địa lý một phần nửa. Bởi vì được đất rồi dù gia thế trước kia có hèn kém cũng có thể trở nên trâm anh, thế phiệt, con cháu gần xa đều được hưởng. Đất phát văn thì làm quan văn, đất phát võ thì hiển đạt về võ nghiệp và đất phát phú thì giầu có đời đời.

(95) Táng thôi phúc lý tuy chi
(96) Trâm anh thế phiệt thư thi gia truyền .
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du nói nhà Kim Trong được đất phát văn như sau: Nền phú quý bậc tài danh Văn chương nếp đất thông minh tính trời Phong tư tài mạo tuyệt vời Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa Việc để đất quan trọng là như thế, cho nên những ai muốn có đất tốt cho ông cha, chớ nên coi thường, muốn kiếm một ngôi đất lớn không phải là dễ. Trước tiên phải kiếm thầy giỏi; sau nữa thầy địa lý phải kỳ công kiếm đất rồi điểm huyệt, phân kim cho thật chu đáo, mới có hy vọng. Vì vậy thiếu chi người xin để đất mà đã mấy người được toại nguyện Một thầy địa lý có khi phải dụng công học hỏi, nghiên cứu cả đời người cũng chưa chắc đã làm toàn vẹn được, nếu họ không phải là học được phép địa lý chính tông. Thầy chính tông hiện nay rất khó kiếm nhưng địa đạo diễn ca của cụ Tả Ao mà chúng tôi trình bày đây đều được các cụ giỏi địa lý công nhận là căn bản chính tông địa lý. Chúng ta chỉ cần phát huy cho biết dụng ý của nó cũng là lợi ích lắm rồi.
( Trích trong địa lý TẢ - AO )