Chủ Nhật, 22 tháng 10, 2017

Bốc dịch và phong thủy !


  • Bạn nào thông hiểu hết đoạn văn dưới đây thì vào bình loạn cho vui . Nếu không hiểu gì chém gió cũng được . Nhất là mấy ông  bốc dịch lục hào rất dễ hiểu đối với mấy ông , không hiểu hết thì nên học thêm !!!!!! Hì hì !!!!!!


XUYÊN SƠN 72 LONG

Người xưa dùng 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa. Xuyên sơn là: Xét định cái long 
dẫn vào huyệt, nó xuyên đúng chữ nào thuộc con gì của vòng Giáp Tý gọi là địa kỷ chuyên
luận về lai long ở giữa chỗ long quá Giáp mà chiếu la bàn, nếu không có Giáp, thì lấy ở chỗ
long nhập thủ Giáp xuống ở sai huyệt là chủ của huyệt tinh, tức là cho long nó khởi lên rồi,
phục xuống thắt nhỏ lại như cuống họng, chữ gọi là “thúc nhân xứ”. Cứ chỗ long tích phân
thủy mà định châm bàn, xem là long gì, để dùng nạp âm mà đón sinh khắc; như Tý long là
thủy, trong khoảng chữ Tý lớn ấy có 5 chữ Tý nhỏ, hễ được chữ Bính Tý là thủy long, Canh
Tý là thổ long, thì đều là vượng khí. Giáp Tý kim long là bại long khí, Mậu Tý hỏa long là tử
khí, Nhâm Tý mộc long là sinh khí. Vì vậy phải coi mạch lại, xem long mạch lại ở phương
nào, thuộc can gì. Vậy lấy 72 long có xấu, có tốt đã phân biệt do Tiên Hiền truyền thụ. Tóm
lại là ở trong địa bàn mỗi chữ chi ở dưới có 5 Tý long, thành ra 60 Giáp Tý; là số của 12 địa
chi của địa bàn có 60, cộng với tứ duy và bát can là 12 vị, mỗi chữ can và chữ duy ở dưới, đều
có ghi thành 12 chữ đỏ, thấu thành 72 long xuyên sơn, khi dùng những long này cần phải
tránh cô hư, không vong, sai thác, Quý Giáp, không lẫn nhau là tốt; lại cần phải đón cái sinh
khí của vượng; tướng 1 đường mạch rót suốt đến chỗ kết huyệt thì tốt. 72 long đã phân rõ cô
hư, diêu sát và vượng tướng, đều căn cứ vào 8 quẻ nạp Giáp, 9x6 xung hợp của can mà ra.
Như gặp Giáp Nhâm là dương, mà cô ra ở nạp Giáp của quẻ Kiền, lấy 6 hào thuộc dương trừ
đi 1 hào giữa, còn 2 hào trên dưới cô dương, là 2 nam vô nữ tướng phối cớ vậy. Nếu gặp ất,
Quý là hư xuất ở nạp Giáp của quẻ Kiền, là lấy 6 hào thuân âm trung hư, không có dương câu
là 2 nữ, không có nam phối nạp cớ vậy. Nếu gặp Bính, Canh là dương, mà vượng ra ở nạp
Giáp của quẻ Cấn, Chấn, 6 hào ở trong 2 quẻ, trừ hào giữa còn trên dưới 2 hào, có 1 dương
phối với 1 âm, là âm dương xung hào mà vượng vậy. Nếu gặp Đinh, Tân là âm mà cùng ra ở
Tốn, đoài nạp Giáp, 6 hào trong 2 quẻ này, trừ hào giữa, còn trên dưới là 1 hào âm, 1 hào
dương, là âm dương xung hợp mà là tướng. Nếu gặp Mậu Kỷ là Quý Giáp, không vong thì
kiên nganh mà khí bất nhập vậy. Xuất ở nạp Giáp của Khảm Ly, trừ hào giữa là thể hiện của
quẻ, còn trên dưới đều tuyệt nhất, bất giao, nên là Quý Giáp không vong. Dụng đó thì rất nên
tránh Giáp ất là cô hư. Như 1 tuần Giáp Tý đến ất Hợi. Đó là 12 long khí mạch trung chính,
lấy Bính, Đinh là vượng. Lấy Bính Tý 1 tuần, đến Đinh Hợi, đó là khí mạch trung chính của
12 long, tránh Mậu Tý là sát diệu. Lấy Mậu Tý 1 tuần đến Kỷ hợp, đó là khí mạch ở trong 12
long. Canh, Tân là tướng, lấy Canh Tý 1 tuần đến Tân Hợi, đó là khí mạch ở trong 12 long.
Nhâm Quý là hư, lấy Nhâm 1 tuần đến Quý Hợi, đó là khí mạch thoái ở 12 long.

Cái vượng tướng ấy là 4 quẻ được tiên thiên: Cấn, Chấn, Tốn, Đoài ở 4 phương góc là 
nơi dưỡng sinh mà thành quẻ, thì 4 quẻ, 6 hào đều là âm dương xung hợp. Nhiều phối với
Bính, Đinh, Canh, Tân là vượng tướng cớ vậy. Nếu gặp 4 quẻ tiên thiên: Kiền, Khôn, Khảm,
Ly ở nơi tứ chính là khoảng hư, nguy thì 4 quẻ, 6 hào đều là thuần nhất bất giao lại phối với
Giáp, Ất, Nhâm, Quý, Mậu, Kỷ là quý Giáp, sát diệu. Như vậy bảo là 9 và 6 không xung hợp
tất là nhân, tài hao tán mà bại tuyệt, nên khi sử dụng phải suy xét cẩn thận. Còn như Bính long
lai mạch thì phải tựa vào chân khí của Bính long xuyên tới; đằng trước đối Nhâm; Ngọ, gác
giây trên thẳng xuống chỗ kết huyệt mới là chuẩn đích, đúng long xuyên sơn.
Dần long lai mạch là địa chi, thì tựa vào Bính Tý một vòng đến chữ Dần gặp Mậu Dần
khí xuyên sơn là khí vượng. Nếu Nhâm Dần long lai mạch nhập thủ, thì từ Canh Tý 1 tuần,
đến số Dần là khí mạch tướng. Tôi được thầy truyền riêng rằng: lên núi xét long hành phải
nhận rõ chỗ khí vào huyệt, đều căn cứ lấy 72 long làm chủ. Muốn xét nghiệm những cái họa
phúc về dĩ vãng và cái lành, dữ về tương lai của người ta thì phải ở nơi chu tinh đó làm căn cứ
không được sai lầm 1 hào Ly.
Người sau muốn kinh nghiệm điều đó, thì cần phải biết cái long khí của 1 vòng Giáp Tý
và khí cộ, hạ huyệt vào đó thì bị bại tuyệt. Cái long của 1 vòng Bính Tý là khí vượng, đặt
huyệt vào thì phát phú quý. Đây chỉ nêu lên 2 vòng làm ví dụ, các vòng khác cũng vậy. 72
long hợp với 64 quẻ, đều bắt đầu từ hào biến trước hết của 8 quẻ. Hỗn thiên hạp Giáp, quyết
định năm phát phúc và tuổi mệnh, thì bắt đầu từ hạ hào (nét dưới) mà biến lên, từ nét biến đầu
tiên đến nét 2, 3, 4, 5 còn nét thứ 6 không biến mà trở xuống biến nét thứ 4 gọi là quẻ du hồn.
Sau khi trở xuống đem cả 3 hào trong quẻ biến hết thảy, để trở về bản quái (quẻ gốc) nên gọi
là quẻ quy hồn. Nhà địa lý lấy 1 đoạn long nhập thử làm bản quái (quẻ gốc) để xét xem những
sơn sa ở đằng trước, đằng sau, bên tả, bên hữu mà định đoán phát phúc về niên mệnh đã kể
trên !
Như: Mệnh là quẻ Khảm lần thứ nhất biến hào đầu thành ra quẻ Đoài; gặp Đinh Can;
biến lần hai thành quẻ Chấn gặp Canh can, thì đều phát phúc; biến lần ba thành quẻ Ly gặp
Kỷ Nhâm can; so sánh thì Canh Đinh mạnh hơn; so với Mậu Quý quẻ gốc thì bằng nhau; biến
lần thứ 4 thì thành ra quẻ du hồn, là ất can thì sức nhẹ hơn. Giáp, Tân, Bính 3 quẻ này thì 3
năm Nhâm không phát phúc vì quẻ Khảm không có 3 quẻ Kiền, Tốn, Cấn nên bảo rằng:
“Xuất quái vô quan chức”, muốn biết rõ nghĩa cần phải đọc cuốn Duyên đàn tử có chép đủ cả
64 quẻ.

XUYÊN SƠN THẤT THẬP NHỊ LONG THỨC