Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Những nơi chôn cất tốt theo phong thủy

Người xưa coi trên mặt đất là dương, dưới mặt dất là âm. Nơi ở của người sống gọi là dương trạch, nơi chôn người chết gọi là âm trạch.



Linh hồn của người chết yên ổn thì con cháu thịnh vượng, vì vậy các thầy phong thủy coi trọng âm trạch hơn dương trạch rất nhiều lần, nội dung chủ yểu của phong thủy là âm trạch, sách vỡ viết về âm trạch cũng nhiều hơn.

Ở giai đoạn đầu, con người chưa có hành vi mai táng. “Mạnh Tử, Đằng Văn Công thượng” viết “… không chôn người thân… chồn cáo ăn xác”. Sau này dần dần mới có hành vi chôn cất, nhưng chưa chú ý đến thời gian, địa điểm, hình dáng mộ.

Đến xã hội nguyên thủy, hưởng chôn người có xu hướng nhất trí: 114 ngôi mộ thời đồ đá mới. phát hiện được ở Hà Nam(Trung Quốc) đều hướng về nam hơi lệch về tây, 250 ngôi mộ Văn hóa Ngưỡng Thiều đều hơi lệch về tây…



Cùng với việc chôn cất được quy hoạch hóa, đã xuất hiện tình huống xây mộ cho người sống, chọn đất mà chôn với mong muốn tạo phúc cho đời sau. Mồ mả do vậy có nhiều tên gọi:

– Phần, vốn là đống đất, sau này được dùng để gọi mồ mả.

– Mộ, là tên gọi đất chôn bậc vương giả ngày xưa.

– Gò, vốn là đất núi. Thời Xuân Thu gọi mộ là Gò (khưu).

– Chủng (mộ). vốn nghĩa là đỉnh núi. Sau này gọi mộ cao là chủng.

– Lăng, vốn nghĩa là núi đất lớn. đời sau gọi mộ đế vương là lăng.

Những người thống trị các đời nước, nói chung đều xây dụng lăng tẩm rất đồ sộ. Như Kim tự tháp ở Ai Cập. hoặc như Lăng mộ Tần Thủy Hoàng huy động tới 70 vạn dân phu, xây dựng trong 40 năm. Thứ nữa là dùng các loại hình thức trang sức mồ mả, như khắc động vật bằng đá, làm cột đá, bia đá, khắc tượng người bằng đá, khắc động vật bằng đá có các con sư tử, ngựa, lợn, rùa, voi, dê, hổ, hươu, bò, kỳ lân, lạc đà, tê giác…

Đến thời Đông Hán, khắc đá trước mộ đã rất phổ biến trở thành một loại mộ chế. Vật khắc đá được bày hai bên thần đạo, thể hiện rõ sự tôn nghiêm.

Tẩm vốn là nơi nhà vua và gia tộc ăn uống cư trú. Ðến đời Tần Hán đã đưa vào trong lăng mộ, vì người xưa cho rằng, linh hôn người chết vẫn ăn ở trong lăng tẩm.

Trong lăng tẩm có trồng cây, khắc bia đá.

Bia vốn dùng để quan sát bóng mặt trời. Sau dùng để khi hạ huyệt, kéo lôi quan tài xuống. Rồi có người khắc chữ trên hìn, và thế là thành bia mộ. Trên bia quần thần, con cháu thường khắc chữ ca ngợi công đức của vua, cha nhằm để cho đời sau biết.

Trước mộ thiên tử trồng cây thông, mộ chư hầu trồng cây bách, mộ đạo phu trồng cây loan, mộ sĩ phu trống cây hòe. mộ dân thường trồng cây liễu.

Theo các nhà phong thủy thì dựa vào ngày sinh, ngày mất ta có thể tra cứu Trạch Quẻ để xác định 4 hướng tốt, 4 hướng xấu, chọn các ngày tốt giờ tốt để di quan, hạ huyệt, để mong người chết lưu phúc lại cho con cháu.

1. Những trường hợp chôn mộ nơi xấu:

– Không chôn mộ nơi có nước đọng lại, có nghĩa là long mạch phải chảy, không bị cắt đứt, con cháu sẻ bị thận, hư răng, đau lưng, những bệnh không vận động sẽ phát sinh, chết bất đắc hay tuyệt tự, không con trai nối dõi.

– Không chôn mộ gần các cây lớn để rễ cây đâm vào hài cốt thì con cháu bị động, đau ốm có thể năm này thì rể cây chưa ăn vào nhưng các năm tiếp theo có thể bị,

– Không chôn gần các nơi công cộng, khu vui chơi, bến xe, bến tàu, khu công nghiệp nặng, phần âm trạch sẽ bị nhiễu, con cái hư hỏng, học hành không đến nơi đến chốn, tù tội.

– Không nên đóng đinh, sắc thép vào quan tài, hoặc nếu nút áo của người chết bằng xương thú hay kim khí, cũng phải cắt bỏ, chứ không để nguyên như vậy mà chôn theo người chết. Con cháu điên khùng, ung thư.

– Mộ xây bằng bê tông cốt sắt mà bít kín mặt nấm sẽ tạo ra áp lực của nước, của khí. khi nhục thể bắt đầu thối rữa, phát sinh ra nhiệt, khiến con cháu bị huyết áp cao, tiểu đường, hay cholesterol.

– Bia mộ để dưới chân, Con cháu ngu đần, vất vả cơ hàn, nghèo đói.

– Long hổ giao nhau, núi đồi bên trái mộ và những gò đồi bên tay phải mộ, đụng vào nhau ở tiền án hay minh đường thì loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau. (Như ngôi mộ nhà Trần kết phát 200 năm, nhưng gia tộc ruột thịt lấy nhau, vì sợ mất ngôi).

– Mộ nghịch long, tức là đầu mộ để dưới thấp, chân hướng về tổ sơn trên cao, con cháu loạn thần tặc tử, bất hiếu, bất trung.

– Mộ đang kết khí, kết thủy, kết mối mà bốc mộ dời đi: Con cháu suy sụp, chết bất đắc




– Trùng táng hay trùng huyệt, tức là chôn nhằm chỗ mà trước đây đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú như voi, trâu, bò: Con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên táng. Nghĩa là nhiều người chết liên tục trong vòng 3 năm.

– Trong gia đình có người chết trôi, chết nước phải lo đoạn nghiệp , vì sợ về sau sẽ có người chết chìm nữa.

Địa lý âm trạch (về mồ mả) những trường hợp đặt sai hướng mộ, đặt sai huyệt vị, đặt sai ngày giờ, hoặc phạm xung sát… đều phát tác rất nhanh, có trường hợp phạm nặng, phát tác ngày trong vòng 3 ngày sau khi đặt mộ, chậm nhất sau 3 năm cũng đã phát tác.

Trường hợp mộ bị động do thay đổi địa chất, rễ cây đâm vào, trâu bò đánh phá hoặc do nhiều tác nhân khác, chỉ cần tu sửa lại, sắm bát cơm quả trứng, chai rượu, vàng mã, quần áo mã và con ngựa mã, trầu nước hương đăng (có điều kiện thì lễ lớn hơn) tạ lễ thổ thần là được.

Nếu muốn đổi vận phát tài phát phúc cho gia đình, phải chọn được ngôi đất mới thích hợp, Chú ý nhận biết nơi khởi đầu và kết thúc, dừng tụ của sơn mạch, thủy lưu điểm trúng kết huyệt, tìm kiếm phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hướng, lại phải biết tuổi người chết có hợp để phù hộ lưu phúc cho con cháu hay không.

Tuyệt đối không nên động chạm nếu không gặp trường hợp phải di dời cho dự án chẳng hạn, không nên “Ma ngủ lại rủ ma dậy”.

2. Lựa chọn những nơi đất chôn mộ tốt:

Dấu hiệu nhận biết huyệt cát:

– Nhập thủ đầy đặn: nhập thủ là nơi long mạch vào mộ. Nếu nơi đó hơi lồi như mu con rùa, đầy đặn, cỏ cây tươi tốt thì nên chọn để đặt mộ, gia chủ và con cháu sẽ phú quý.

– Màu sắc đất: sau khi đào thấy đất ở dưới mịn, có màu ngũ sắc, màu hồng vàng, màu son đậm, màu hồng có vân. Đất này gọi là ” Thái cực biên huân”.

– Đồi đất và dòng nước bao bọ: huyệt mộ nằm trong thế này được xem là huyệt quý.Để đảm bảo huyệt cát, khi đào huyệt thường dùng đất ngũ sắc, hoặc đất hồng sắc để chôn mộ, chôn tiểu quách. Ngoài ra, đất ngũ sắc và đất hồng sắc có tác dụng kết dính thành một khối khi gặp nước, đảm bảo huyệt mộ yên vị và không ngấm nước và trong quan.

– Gia chủ và con cháu sẽ gặp đại cát, đại lợi.

– Kỵ nhất là huyệt là nơi đất đá, có chứa nhiều rác rưởi, hoặc có nguồn nước thải bị ô nhiễm. Đào lên ở đáy huyệt phải có mạch nước ngầm chảy dưới huyệt. Màu sắc của nước trong xanh, mùi thơm, tránh nước bị ô nhiễm hoặc nước có mùi hôi. Những huyệt ở đồng bằng, ruộng thì kỵ không có nước ở dưới huyệt.

– Ở các vùng nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiếm, hoặc nằm án ngữ ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay sông suối là đắc cách(tốt). Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước huyệt mộ.

Quan sát cẩn thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc đâm xuyên sang hai bên thì gia chủ bị bại không thể dùng. Đường đi sát ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ chủ tổn hại nhân đinh. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường đi lối lại quanh khu vực mộ.

Ở vùng núi non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý chính tông. Huyệt cần được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt(hai đồi núi ôm lấy nhau, mộ ở phần giữa), phía sau có cao sơn che chắn, phía trước có minh đường thuỷ tụ…

Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷchính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi chôn, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường.

Nếu đã có nghĩa trang của dòng họ được thiết kế sẵn từ trước thì việc này rất đơn giản vì khi lập nghĩa trang đã có các Phong thủy sư tính toán cho rồi.

– Tầm Long tróc mạch- Xác định Huyệt Khí-Mua cuộc đất đã tìm được- Tính toán, phân kim sẵn, bao gồm các bước như xác định Loan đầu,Thiên Môn, Địa hộ, xác định vị trí kết Huyệt- Tính toán thời gian đặt mộ, độ sâu và phương đặt để đạt được Huyệt Khí Bảo Châu…

– Nhiều khu vực vì đã có đất hay nghĩa trang từ trước nhưng không tụ đủ Khí phải thực hiện việc dẫn Long về để tụ Khí tại cuộc đất đã chọn. Nói tóm lại những điều nói trên rất phức tạp và là chuyên môn của các Phong Thủy Sư. Một việc rất quan trọng là phải cân được phúc đức của dòng họ của mình. Phúc phận của dòng họ đó như thế nào phải đặt vào khu Địa Huyệt có năng lượng tương đồng mới có kết quả. Không vì khu đất kết Huyệt quá to , quá mạnh, quá nhiều đời mà đặt vào khi phúc phận của dòng họ chưa đủ.Thông thường những gia đình bình thường về phúc phận chỉ cần một con giun cũng đủ cho một cuộc sống bình an, ổn định, đâu có cần tới những con Long, những Huyệt kết đắc địa.Những Huyệt lớn chỉ sử dụng cho những vị to lớn, những dòng họ đã đủ phước báu do Thiên định mà thôi(như Võ Nguyên Giáp chẳng hạn).

– Phù Địa: Là mạch đất chỗ chôn mộ ngày càng nổi lên cao, do thủy tụ làm cho đất nở trương ra. ( Khác với phù sa là đất bồi do hiện tượng xâm thực của cuồng lưu.)

– Đất xốp: Nhẹ và mịn màng gần ao hồ, sông, bể. Huyệt đào lên thấy đất đỏ mịn như tròng đỏ hột gà.

– Mộ kết: là mộ đã thụ được Linh Khí của Long mạch, tụ khí lại trong mộ và làm cho con cháu trong dòng họ đó làm ăn thuận lợi, gia đình , dòng họ thuận hòa và mạnh khoẻ. Có nhiều cách để kiểm tra mộ kết như bằng các phương pháp Cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường Khí…Có thể quan sát bằng mắt thường sẽ thấy ngôi mộ đó càng ngày càng nở ra do được tích tụ Linh khí của Long mạch, giống như những cái gò thường nổi lên do hiện tượng dư khí của Long mạch trên cánh đồng. Trên các ngôi mộ kết thường cỏ mọc rất nhanh và xanh tốt. Tại Hà Tĩnh, có ngôi mộ kết khi người nhà đi thăm mộ, khi về vứt bỏ những đoạn thân của bó hoa cúc ra ven mộ, vài ngay sau những đoạn thân đó đã mọc ra những cây cúc hết sức tươi tốt. Người xưa cũng dùng phương pháp này để xác định Huyệt kết. họ cắm những cành cây khô vào những cuộc đất nghi có mộ kết, nếu những cành khô đó nẩy mầm xanh tốt thì gần như chắc chằn nơi đó có Huyệt kết. Một quan sát khác nữa là nhìn những viên đá , bia mộ tại Huyệt, nếu mộ kết tức là làm cho những viên đá, bia mộ đó bóng loáng lên như được lau chùi bằng dầu bóng.Khi gặp trường hợp Mộ kết, tốt nhất là để nguyên không được dịch chuyển vì sẽ gây ra vô vàn rắc rối trong cuộc sống của dòng họ.

– Kết mối: Là mối (termite) tập hợp, tạo thành một lớp tường bảo vệ hài cốt kiên cố khỏi bị xâm phạm của tà khí.(Tin đồn rằng mộ ông nội của tổng thống Thiệu ở làng Tri-Thủy ở Phan-Rang kết mối)

– Kết thủy: Hay thủy tụ là hài cốt được một lớp nước trong bảo vệ qua nhiều chục năm như một thứ nước ướp xác. Nếu bốc mộ thì nước sẽ nhanh chóng hóa đục và hài cốt tức khắc ngã nàu đen. (Thầy địa lý cho rằng mộ ông nội của tiến sĩ Lê-qúi-Đôn ở huyện Duyên-Hà, tỉnh Thái-Bình, kết thủy?)

3. Thời gian cải táng và quy tập mộ:

Theo tất cả các sách từ xưa để lại, thời gian tốt nhất trong năm là từ cuối Thu đến trước ngày Đông Chí của năm. Không ai cải táng , quy tập mộ đầu năm cũng như sau Đông Chí . “Chọn lựa thời điểm để cải táng là một việc vô cùng quan trọng. Theo phong tục của người Việt Nam, người mất sau 3 năm thì cải táng, cũng là lúc con cháu mãn tang, tức là hoàn toàn hết để tang vong linh. Vì thế, việc cải tháng thường được tiến hành sau 3 năm chôn hung táng. Tuy nhiên, hiện nay thực tế môi trường địa lý và khí hậu có nhiều thay đổi, các hoá chất được sử dụng nhiều trong đất để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng sau 3 năm xác người chết chưa phân huỷ diễn ra khá phổ biến, nên nhiều gia đình lựa chọn giải pháp là để thời gian cải tháng lâu từ 4 đến 5 năm để tránh hiện tượng trên.Năm để tiến hành cải táng phải lựa chọn theo tuổi của vong, tránh những năm xung sát. Ngoài ra còn phải căn cứ theo tuổi của trưởng nam trong nhà, vì khi vong đã mất thì mọi sự may rủi đều gánh trên vai của người trưởng nam. Năm để tiến hành cải táng cũng phải được phù hợp với tuổi của người trưởng nam.
Sưu tầm ở đây !




Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015

10 điều cấm kỵ khi đặt gương trong nhà

10 điều cấm kỵ khi đặt gương trong nhà

Bạn đã biết đặt gương cho đúng cách trong ngôi nhà của mình chưa? Dưới đây là 10 điều bạn nên tránh khi treo một tấm gương trong nhà.
1. Cấm kỵ đặt gương đối diện thẳng với cửa chính
Ở trong nhà, không nên đặt gương đối diện với cửa vào nhà. Gương vốn có tác dụng phản chiếu, sẽ ngăn chặn tài vận, đem toàn bộ vận may tốt đều phản xạ đi, khiến cho sự nghiệp gặp trắc trở, hay mất mát về tài vận.
2. Cấm kỵ đặt gương đối diện cửa nhà vệ sinh
Nhà vệ sinh là một nơi rất riêng tư, nếu như gương đối diện với cửa nhà vệ sinh, sẽ rất dễ dàng khiến cho một người nào đó nhìn thấy các vật dụng trong nhà vệ sinh và bất kì một hoạt động nào khác của người trong đó, khiến họ cảm thấy khó chịu và bất nhã. Đồng thời sự riêng tư cá nhân cũng bị phơi ra, gây nên sự không thoải mái, do đó nên tránh đặt gương đối diện cửa nhà vệ sinh.
(Ảnh: Internet)
3. Cấm kỵ đặt gương đối diện với tượng của các vị Thần 
Đặt một tấm gương đối diện với tượng của các vị thần là sự thiếu tôn trọng đối họ, thần linh sẽ không những không thể hiển linh được, mà sẽ có tác dụng ngược lại. Gương thuộc về xung sát, sẽ chống đối thần linh, đa phần là không tốt, vì vậy gương nhất định không nên để đối diện với tượng của các vị Thần.
4. Cấm kỵ đặt gương đối diện với cửa phòng ngủ của chủ nhà
(Ảnh: motthegioi)
Cửa phòng ngủ của chủ nhà và cửa chính của nhà đều quan trọng như nhau, chúng đóng một vai trò rất quan trọng, phòng ngủ của chủ nhà chính là nơi nghỉ ngơi của chủ nhân, một nửa thời gian của họ là ở đây, vì vậy gương không được đặt đối diện với cửa phòng ngủ của chủ nhà, như vậy có thể tránh chiêu mời những điều không tốt đến.
5. Cấm kỵ đặt gương đối diện với giường ngủ
Nếu gương đối diện với giường ngủ, khi người ta mới tỉnh dậy sau giấc mộng, ý thức của họ vẫn còn trong trạng thái mơ hồ, rất dễ dàng bị dọa sợ bởi bóng của chính mình trong gương. Đồng thời, gương vốn có một vai trò phản xạ, vì vậy gương sẽ chống lại chủ nhà, sẽ phản xạ đi những may mắn của chủ nhà, do đó, không nên đặt gương đối diện với giường ngủ.
6. Cấm kỵ ốp gương trên trần
Nếu gương mà được ốp trên trần nhà thì những người phía dưới sẽ bị tiêu khí tiêu tài, bất lợi cho tài vận và sức khỏe, gương tốt nhất là không nên gắn lên trần của phòng khách, vì điều này sẽ ảnh hưởng đến vận may của những người bên dưới, đồng thời cũng khiến cho người bên dưới cảm thấy rất không tự nhiên thoải mái.
7. Cấm kỵ đặt gương trong nhà bếp
Nhà bếp là một nơi rất phồn thịnh của “lửa”, nếu như gương được đặt trong bếp, bên trong và bên ngoài gương đều là lửa, sẽ khiến cho ngọn lửa của nhà bếp càng thịnh vượng hơn, dễ gây cháy hoặc những điều ngoài ý muốn khác khiến cho người ta phát hỏa (tức giận).
(Ảnh: ngoinhadep)
8. Gương đặt tại cửa hàng xóm đối diện với cửa nhà mình
Rất nhiều người đặt những vật phẩm dạng gương kính trên cánh cửa nhà mình, như vậy nó sẽ gây ảnh hưởng đến tài vận của nhà đối diện, và cũng như vậy nếu cửa nhà đối diện mà có gương đối diện với nhà bạn, như vậy đối với tài vận của nhà bạn cũng rất xấu . Do đó, khuyến cáo rằng, trên cửa nhà của mình cũng không nên đặt gương, đôi bên cùng không đặt gương.
9. Cấm kỵ đặt gương vào vị trí tài chính
Vị trí tài chính của nhà và tài vận của gia đình có liên quan chặt chẽ với nhau, vì vậy không nên đặt một chiếc gương phản chiếu lên vị trí các nguồn lực tài chính, mà nên đặt một số thứ giúp đem lại tài vật hay cát tường, như thế mới mang lại lợi ích nhiều hơn cho tài vận gia đình.
10. Cấm kỵ gương đối diện với bàn học
mirror eating for weight loss
(Ảnh: robertindiana.com)
Đối với một số học sinh mà nói, nếu đặt một tấm gương đối diện với góc học tập, nó sẽ làm cho hoc sinh bị phân tâm trong học tập, họ sẽ soi ngắm hình ảnh của mình nhiều hơn và khả năng tư duy suy nghĩ sẽ ít đi, một thời gian dài sẽ dẫn đến kết quả học tập kém.
Nguồn ở đây !

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Nhân tướng tổng hợp !

Tay không nâng bát, rung chân nhún vai là tướng của người cùng cực cả đời .
Bàn tay không cầm bát cơm lên, thì nghèo túng cả đời, rung chân nhún vai thì vất vả ba đời? Bạn có biết vì sao không?
tướng cùng khổ, Bài chọn lọc, ăn cơm,
Khi ăn tay cần phải nâng hoặc chạm bát cơm để tránh thói quen xấu phá đi tài vận.
Tay không nâng hoặc chạm vào bát cơm, rung chân, nhún vai …là những hành vi xấu thường thấy ở một số người. Ông bà cha mẹ vẫn hay nhắc nhở chúng ta cần phải thay đổi những thói quen xấu ấy, nhưng nếu không nói đạo lý thì mọi người không nghe và cũng không chịu sửa đổi.
Hãy nhìn xung quanh bạn để xem có bao nhiêu người rung chân, nhún vai, hoặc bàn tay không nâng hoặc chạm vào bát cơm? Nếu có thì hãy đưa người ấy xem bài viết dưới đây.
Tay không nâng hoặc chạm vào bát cơm, thì nghèo túng hết cả một đời, rung chân, nhún vai thì vất vả ba đời?
Ngồi có tướng ngồi, đứng có tướng đứng, ăn có tướng ăn, các câu nói của người xưa đều có lý. Tướng do tâm sinh, nhìn tướng mạo là biết tâm tính con người, từ bề mặt thấy có thể thấy được bên trong, tướng định càn khôn. Vậy nên, đừng coi thường các dáng tướng trên thân của bạn, vì chúng ẩn giấu rất nhiều bí mật, và có thể định ra toàn bộ vận may của cuộc đời bạn. Không tin ư? Hãy xem các câu chuyện dưới đây:
Nhiều năm trước đây, có lần cùng bạn bè đi ăn, trong bữa cơm, tôi có chú ý đến một người bạn không thân lắm, cử chỉ của anh không giống mọi người, bàn tay đã không bưng bát cơm lên, cũng không đặt cạnh bát cơm, mà lúc nào cũng dúi dưới bàn, hơn nữa anh còn liên tục rung chân.
Sau bữa cơm, bạn ấy xin phép về trước, tôi với các bạn ở lại tán chuyện. Một người bạn hỏi tôi đánh giá người bạn ấy ra sao. Tôi nói: “Người này ngày sau rất khó phát đạt, có thể cả đời nghèo túng”. Bạn bè hỏi tôi vì sao. Tôi nói: ‘Người xưa từng nói, khi người ta ăn cơm nhất định bàn tay phải chạm hoặc nâng bát cơm lên, bàn tay không nâng hoặc chạm vào bát khi ăn cơm, thì người đó sẽ cùng cực cả đời’”.
Nhiều năm sau, tôi vô tình lại nghe bạn bè kể về tình huống của người kia. Quả nhiên trong mấy năm đó, việc gì anh làm cũng không thành, không biết đã thay đổi bao nhiêu công việc, việc mua đi bán lại cũng đã làm, nhưng hầu như toàn bị lỗ rồi hết sạch vốn, mọi thứ đều khó khăn, cuộc sống phiêu bạc và không ổn định.
Người đời thường nói: “Thức ăn cần phải theo đến miệng, không phải miệng đi theo đồ ăn”, ý nói là, người ta khi ăn phải đưa đồ ăn vào đến miệng, chứ không phải lúc nào cũng chúc đầu xuống đồ ăn mà ăn.
Cây rung lá rụng, người hay dao động là người có phúc bạc”, rung chân cũng là một loại tướng phá tài. Dân gian có câu: “Người nam mà rung chân thì cùng cực, nữ mà rung chân thì hèn mọn”. Nếu một người mãi theo thói quen này, vừa ngồi xuống liền bắt đầu rung chân hoặc nhún vai, lúc nào cũng không yên ổn, đối với người nam mà nói thì họ không dễ tụ tài, còn người nữ mà nói thì thân họ hèn mọn và phù phiếm, gia tài rồi cũng phá sạch.
Từ trên tướng học mà nói, rung chân là tướng phá tài, những người thường hay rung chân thì có thể rung đi tài lộc và may mắn của bản thân, tài vận và phúc khí đều đem phủi sạch, hơn nữa rung chân cũng là một biểu hiện của tướng người nhẹ dạ phù phiếm, do đó mọi người cần tránh thói quen này.
Điều khác nữa, nhún vai cũng là một loại cử chỉ tổn tài. Có một vài người thích nhún vai, khi đi đường thích làm cho vai của mình lắc động. Trong giới võ thuật, luyện Thái Cực quyền, Bát Quái chưởng, Hình Ý chưởng,…, tư thế tay đều yêu cầu “thấp vai, thấp khuỷu tay”, thấp vai là nói thả lỏng hai xương đầu vai, không làm nó nhô lên; thấp tay ý là thả lỏng đầu nhọn khuỷu tay. Chỉ có vai thấp xuống mới có thể thả lỏng được vai, thả lỏng xương đầu vai, xoay vai theo tùy ý, có thể duỗi vai và cơ bắp thoải mái, vai thấp giúp cho ngực hơi ưỡn, hỗ trợ khí nhập xuống được đan điền.
Nếu một người thích nhún vai, cổ của anh ta sẽ luôn gượng lên phía trước, chẳng phải như con gà lúc nào cũng vươn cái cổ dài ra để tìm bới đồ ăn. Nên cũng nói, người thích nhún vai trong sinh hoạt không dễ an định, có thể vận vất vả liên tiếp tới.
Tuy nhiên, từ dáng đi đứng, cho đến tất cả tài phúc, danh dự, địa vị, gia sản đều chỉ là biểu hiện bên ngoài. Đức hành mới là căn bản, có đức dày thì mới có phúc lộc, câu nói này một chút cũng không sai. Người am hiểu văn hóa truyền thống của người xưa, sẽ hiểu rất rõ về phúc vận. Người đại phúc, thiên kim phú quý ắt sẽ có tướng đài cát cao sang, âu cũng là từ đức mà ra.
Trích ở đây !

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2015

Xem tuổi làm nhà !

Cách tính Kim Lâu (Kỵ cất nhà) theo sách cổ “Ngọc Hạp Chánh Tông”Kim Lâu gồm có:
- Kim Lâu Thân kỵ bản thân mình.
Kim Lâu Thê kỵ vợ.
Kim Lâu Tử kỵ con.
Kim Lâu Súc kỵ chăn nuôi gia súc.
(Nếu ai không chăn nuôi gia súc chuyên nghiệp, thì vẫn làm nhà được).



Các cung phạm Kim Lâu là Khôn, Càn, Cấn, Tốn.
Các cung không phạm là Đoài, Khảm, Chấn , Ly, ngũ Trung.

Cách tính như sau:

– Theo quy luật chuyển cung bát quái, thuận kim đồng hồ, cứ cách một cung phạm Kim Lâu thì một cung không phạm Kim Lâu, nếu bạn nào sáng ý có thể điểm trên bàn tay cũng tính được Kim Lâu.

+ 10 tuổi khởi tại cung Khôn phạm Kim Lâu Thân.
– 11 tuổi tại cung Đoài Không phạm.
– 12 tuổi tại cung Càn phạm Kim Lâu Thê.
– 13 tuổi tại cung Khảm không phạm.
– 14 tuổi tại cung Cấn phạm Kim Lâu Tử.
– 15 tuổi tại cung Chấn không phạm.
– 16 tuổi tại cung Tốn phạm Kim Lâu Súc.
– 17 tuổi tại cung Ly không phạm.
– 18 tuổi tại cung Khôn phạm Kim Lâu Thân.
– 19 tuổi tại cung Đoài không phạm.

+ 20 tuổi khởi tại cung Đoài không phạm Kim Lâu.
– 21 tuổi tại cung Càn phạm phạm Kim Lâu Thê.
– 22 tuổi tại cung Khảm Không phạm Kim Lâu.
– 23 tuổi tại cung Cấn phạm phạm Kim Lâu Tử.
– 24 tuổi tại cung Chấn không phạm Kim Lâu.
– 25 tuổi tại cung Tốn phạm Kim Lâu Súc.
– 26 tuổi tại cung Ly không phạm Kim Lâu.
– 27 tuổi tại cung Khôn phạm Kim Lâu Thân.
– 28 tuổi tại cung Đoài không phạm Kim Lâu.
– 29 tuổi tại cung Càn phạm Kim Lâu Thê.

+ 30 tuổi, 40 tuổi, tiếp tục chuyển thuận kim đồng hồ như 10 tuổi và 20 tuổi

+ Riêng 50 tuổi khởi tại ngũ trung, không phạm Kim Lâu (Quy tắc: Ngũ thập nhập cung trung).
– 51 tuổi chuyển đến cung Cấn phạm Kim Lâu Thê.
– 52 tuổi cung Chấn không phạm, tiếp tục chuyển thuận kim đồng hồ.

+ 60 tuổi, 70 tuổi cũng tính chuyển thuận kim đồng hồ trên bát quái như 10tuổi, 20 tuổi, 30 tuổi, 40 tuổi, nhưng đến 50 tuổi phải nhập cung trung (Quy tắc: Ngũ thập nhập cung trung).

Nguồn: Phong Thủy Tổng Hợp.


Tuổi Hoang Ốc
Theo các tài liệu về Trạch cát dân gian, vòng tính tuổi Hoang Ốc chia ra làm 6 cung: nhất Cát, nhì Nghi, tam Địa Sát, tứ Tấn Tài, ngũ Thọ Tử, lục Hoang Ốc. Cách tính là khởi tuổi bắt đầu 10 tại nhất Cát, 20 tại nhì Nghi, 30 tại tam Đại Sát, 40 tại tứ Tấn Tài, 50 tại ngũ Thọ Tử, 60 tại lục Hoang Ốc, 70 lại bắt đầu từ nhất Cát…

Ý nghĩa của lục cung Hoang Ốc:
1. Nhất Cát (hay Kiết cũng vậy): Làm nhà tuổi này sẽ có chốn an cư tốt, mọi việc hanh thông, thuận lợi (Nhất kiết an cư, thông vạn sự).

2. Nhì Nghi: Làm nhà tuổi này sẽ có lợi, nhà cửa hưng vượng, giàu có (Nhì nghi tấn thất địa sinh tài).


3. Tam Địa Sát: Tuổi này làm nhà là phạm, gia chủ sẽ mắc bệnh tật (Tam sát nhơn do giai đắc mệnh).

4. Tứ Tấn Tài: Làm nhà tuổi này thì phúc lộc sẽ tới (Tứ tấn tài chi phước lộc lai).

5. Ngũ Thọ Tử: Tuổi này làm nhà là phạm, trong nhà chia rẽ, lâm vào cảnh tử biệt sinh ly (Ngũ tử ly thân phòng tử biệt).

6. Lục Hoang Ốc: Tuổi này làm nhà cũng bị phạm, khó mà thành đạt được (Lục ốc tạo gia bất khả thành).
Nhìn vào đây có thể thấy, tuổi gia chủ ở vào các cung: nhất Cát, nhì Nghi, tứ Tấn Tài mà làm nhà thì thuận tốt. Còn nếu ở vào các cung: tam Địa Sát, ngũ Thọ Tử, lục Hoang Ốc thì bị phạm, phải kiêng tránh.

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Lịch tiết khí


Dùng vào mọi môn học thuật cổ truyền , để xác định ngày giờ cho chính xác !
Tra cứu ở đây ! Hoặc ở đây


CÁCH XÁC ĐỊNH GIỜ TÝ LƯỢM NHẶT TRÊN MẠNG .
Là người làm dự đoán, học theo sách nào, Thầy nào thì trung thành với Sách-Thầy đó, không phải cứ “đứng núi này trông núi nọ“, rốt cuộc không rút ra được kinh nghiệm trong dự đoán.

Trong sách ”DỰ ĐOÁN THEO TỨ TRỤ” và “DỰ ĐOÁN THEO CHU DỊCH” của Thiệu Vĩ Hoa, người đang rất nổi tiếng của Trung Tâm Tham Dự Học Trung Quốc, đã khảo nghiệm qua hàng ngàn trường hợp, thì cho biết rằng cho dù sinh tại bất cứ Quốc Gia nào, đều phải chuyển đổi thành Giờ Bắc Kinh để lấy lá số, hoặc là lấy Tứ trụ thì dự đoán mới chính xác.

Chúng tôi trong dự đoán thường kết hợp nhiều phương pháp để bổ sung cho nhau: TỬ BÌNH-TỬ VI-CHU DỊCH-HÀ LẠC…mỗi phương pháp đều có những ưu điểm cũng như sự hạn chế của nó…Nếu chỉ dùng một phương pháp dự đoán thì không khai thác được hết những dữ kiện của cả một đời người.

Chúng tôi cũng đã kiểm nghiệm rất nhiều trường hợp người sinh ở nước ngoài, chuyển đổi thành Giờ Bắc Kinh để lấy Tứ trụ và lá số, dự đoán độ chính xác cao (chủ yếu là theo thông tin phản hồi của khách hàng).

Bàn về 12 giờ âm lịch
Có rất nhiều khách hàng gởi thông tin hỏi chúng tôi về việc lấy giờ sinh như thế nào để xem lá số TỬ VI chính xác.

Để đáp ứng nhu cầu của nhiều người muốn tự mình lấy lá số trên mạng được chính xác, cũng như khi khách hàng đóng phí và gửi thông tin giờ sinh cho TuviGLOBAL để xem tử vi XXX , thì chúng tôi phải xử lý như thế nào trước khi an sao luận đoán.

Sau đây chúng tôi xin giải đáp một số vướng mắc xung quanh việc lấy giờ theo ngày tháng âm lịch như sau:

- Tất cả các lập trình lấy lá số trên mạng thường lấy giờ TÝ từ 23h00 đêm ngày hôm trước đến 01h00 giờ sáng ngày hôm sau, (các giờ khác cứ tuần tự nối tiếp 2 giờ đồng hồ/1 giờ âm lịch). Như vậy nên đa phần đều sai, dẫn đến bình giải sai theo.

- Vì trái đất tự quay xung quanh nó theo một trục nghiêng nên sự chuyển giờ của 12 tháng không thể " đồng loạt" giống nhau được.

- Phải xác định giờ sinh theo tháng âm lịch, có nghĩa là theo sự chuyển tiết khí.

Ví dụ: Năm 2006 LẬP XUÂN lúc 13h14' ngày 17 tháng 12 âm lịch. Như vậy, tuy còn là năm BÍNH TUẤT nhưng nếu ai sinh từ giờ phút ngày tháng trên thì đã tính là sinh tháng giêng năm ĐINH HỢI. Cho đến 07h24’ ngày 17 tháng 1 âm lịch năm 2007 chuyển tiết khí KINH TRẬP thì tính là tháng 2 âm lịch. Cứ tương tự như vậy mà tính các tháng tiếp theo.

Căn cứ theo cách tính trên để áp dụng tính giờ trong rất nhiều lĩnh vực như an số Tử Vi, Bói Dịch, cất nhà, khai trương v.v…

- Cụ thể sự chuyển giờ của các tháng (lấy giờ TÝ làm mốc), các giờ kế tiếp thì cứ cộng thêm 2 giờ đồng hồ là được:

+ Tháng 1 âm lịch giờ TÝ từ 23h30 (hôm trước) đến 1h30

-------- 2 ------------------------ 23h40 ----------------- 1h40

-------- 3 ------------------------ 23h50 ----------------- 1h50

-------- 4 ------------------------ 00:00 (ngày đó) đến 02h00

-------- 5 ------------------------ 00:10 ----------------- 02h10

-------- 6 ------------------------ 00:00 ----------------- 02h00

-------- 7 ------------------------ 23h50 (hôm trước) -- 1h50

-------- 8 ------------------------ 23h40 ----------------- 1h40

-------- 9 ------------------------ 23h30 ----------------- 1h30

-------- 10 ---------------------- 23h20 ----------------- 1h20

-------- 11 ---------------------- 23h10 ----------------- 1h10

-------- 12 ---------------------- 23h20 ----------------- 1h20

(Cách tính giờ như trên theo môn phái “Bốc Phệ" mà chúng tôi nghiên cứu, đã lưu truyền nhiều đời, thấy ứng nghiệm đúng.
Ví dụ: khi còn trong giờ ”không vong*” thì không thể gieo quẻ được).

- Chúng tôi trong quá trình dự đoán chủ yếu ứng dụng Tử Bình (dự đoán theo Tứ trụ), và Bát Quái (dự đoán theo Chu Dịch), là chính. Chúng tôi chỉ ứng dụng những tổ hợp SAO đặc biệt (những sao an theo ngày-tháng-năm) trong Tử Vi, vì lý do sau:

- Nhiều lá số giờ sinh không rõ ràng nên khi an các cung trên lá số có thể bị sai địa chỉ. Các SAO ở các cung quan trọng như PHÚC-MỆNH-THÂN đã bị di chuyển sai chỗ thì toàn bộ lá số đã đều là “của ai đó”. Các tiêu chí thông tin không đúng với mình, không dùng được. Nếu gặp trường hợp giờ sinh không rõ ràng thì chúng tôi chỉ xem việc an sao Tử Vi như một tài liệu để tham khảo.

- Gặp tháng nhuần, thì cứ sau ngày 15 âm lịch của tháng nhuần sau được tính là tháng kế tiếp. Chúng tôi thấy rất phiến diện, vô căn cứ, không có cơ sở khoa học. Các nhà nghiên cứu Tử Vi cũng khẳng định đây là một sự hạn chế của khoa Tử Vi.

- Những ai sinh ở Miền Nam trước giải phóng 30/4/1975 hoặc ở bất cứ nước nào, khi muốn xem Tử Vi cần nói rõ nơi sinh để chuyển đổi thành giờ Bắc Kinh** hoặc giờ Hà Nội mới xem được chính xác.

Có những khách hàng cung cấp cho chúng tôi thông tin giờ sinh đúng vào giao điểm chuyển giờ. Gặp trường hợp này rất khó khẳng định giờ sinh. Vì vậy khi dự đoán có phần hơi “chung chung", bởi vì muốn định được giờ sinh chính xác thì phải căn cứ vào hàng loạt sự kiện chính mà đương số đã trải qua, (mà chúng tôi lại không biết), ví dụ: đau bệnh nặng, tai nạn, cưới vợ hoặc chồng, sinh con, xuất ngoại v.v…Vì vậy người nào muốn xem Tử Vi mà lại không nhớ chính xác giờ sinh (trúng vào giờ giao điểm chuyển giờ), thì nên cung cấp những thông tin chính của cuộc đời mà mình đã trải qua để chúng tôi cân nhắc nghiên cứu trong dự đoán, tìm xác suất cao nhất.

xxx

Chú thích:
* Giải nghĩa giờ "không vong": giờ không vong tính theo Can Ngày. Ví dụ hôm nay ngày GIÁP DẦN, can GIÁP VÀ KỶ bị TRIỆT tại THÂN-DẬU. Vì vậy, 2 GIỜ Thân-Dậu gọi là giờ 'không vong'.

**Giờ Bắc Kinh: Theo kinh nghiệm của những nhà nghiên cứu Mệnh lý Trung Quốc, nhất là theo Thiệu Vĩ Hoa, người đang nổi tiếng không những ở Trung Quốc mà còn có uy tín trên lĩnh vực dự đoán Mệnh số của nhiều Quốc gia. Theo kinh nghiệm của ông Hoa thì đều phải chuyển đổi thành ra giờ Bắc Kinh, mới dự đoán chính xác. Ông Hoa đã thử nghiệm rất nhiều trường hợp, và nghiệm thấy đúng.
BÀN VỀ 12 GIỜ ÂM LỊCH
Có rất nhiều khách hàng gởi thông tin hỏi chúng tôi về việc lấy giờ sinh như thế nào để xem lá số TỬ VI chính xác.
Để đáp ứng nhu cầu của nhiều người muốn tự mình lấy lá số trên mạng được chính xác, cũng như khi khách hàng đóng phí và gửi thông tin giờ sinh cho TuviGLOBAL để xem tử vi trọn đời và trọn năm (xem Hạn), thì chúng tôi phải xử lý như thế nào trước khi an sao luận đoán.

Sau đây chúng tôi xin giải đáp một số vướng mắc xung quanh việc lấy giờ theo ngày tháng âm lịch như sau:

- Tất cả các lập trình lấy lá số trên mạng thường lấy giờ TÝ từ 23h00 giờ đêm ngày hôm trước đến 01h00 giờ sáng ngày hôm sau, (các giờ khác cứ tuần tự nối tiếp 2 giờ đồng hồ/1 giờ âm lịch). Như vậy nên đa phần đều sai, dẫn đến bình giải sai theo. (Quý khách hàng có thể tham khảo thêm Cách Xác Định giờ Chính Ngọ của Hồ Ngọc Đức để biết thêm chi tiết).

- Vì trái đất tự quay xung quanh nó theo một trục nghiêng nên sự chuyển giờ của 12 tháng không thể " đồng loạt" giống nhau được.

- Phải xác định giờ sinh theo tháng âm lịch, có nghĩa là theo sự chuyển tiết khí.

Ví dụ: Năm 2006 LẬP XUÂN lúc 13h14' ngày 17 tháng 12 âm lịch. Như vậy, tuy còn là năm BÍNH TUẤT nhưng nếu ai sinh từ giờ phút ngày tháng trên thì đã tính là sinh tháng giêng năm ĐINH HỢI. Cho đến 07h24’ ngày 17 tháng 1 âm lịch năm 2007 chuyển tiết khí KINH TRẬP thì tính là tháng 2 âm lịch. Cứ tương tự như vậy mà tính các tháng tiếp theo.

Căn cứ theo cách tính trên để áp dụng tính giờ trong rất nhiều lĩnh vực như an số Tử Vi, Bói Dịch, cất nhà, khai trương v.v…

- Cụ thể sự chuyển giờ của các tháng (lấy giờ TÝ làm mốc), các giờ kế tiếp thì cứ cộng thêm 2 giờ đồng hồ là được:
(Cách tính giờ như trên theo môn phái “Bốc Phệ" mà chúng tôi nghiên cứu, đã lưu truyền nhiều đời, thấy ứng nghiệm đúng.
Ví dụ: khi còn trong giờ ”không vong*” thì không thể gieo quẻ được).

- Chúng tôi trong quá trình dự đoán chủ yếu ứng dụng Tử Bình (dự đoán theo Tứ trụ), và Bát Quái (dự đoán theo Chu Dịch), là chính. Chúng tôi chỉ ứng dụng những tổ hợp SAO đặc biệt (những sao an theo ngày-tháng-năm) trong Tử Vi, vì lý do sau:

- Nhiều lá số giờ sinh không rõ ràng nên khi an các cung trên lá số có thể bị sai địa chỉ. Các SAO ở các cung quan trọng như PHÚC-MỆNH-THÂN đã bị di chuyển sai chỗ thì toàn bộ lá số đã đều là “của ai đó”. Các tiêu chí thông tin không đúng với mình, không dùng được. Nếu gặp trường hợp giờ sinh không rõ ràng thì chúng tôi chỉ xem việc an sao Tử Vi như một tài liệu để tham khảo.

- Gặp tháng nhuần, thì cứ sau ngày 15 âm lịch của tháng nhuần sau được tính là tháng kế tiếp. Chúng tôi thấy rất phiến diện, vô căn cứ, không có cơ sở khoa học. Các nhà nghiên cứu Tử Vi cũng khẳng định đây là một sự hạn chế của khoa Tử Vi.

- Những ai sinh ở Miền Nam trước giải phóng 30/4/1975 hoặc ở bất cứ nước nào, khi muốn xem Tử Vi cần nói rõ nơi sinh để chuyển đổi thành giờ Bắc Kinh** hoặc giờ Hà Nội mới xem được chính xác.

Có những khách hàng cung cấp cho chúng tôi thông tin giờ sinh đúng vào giao điểm chuyển giờ (ví dụ: 6h00 sáng, 15h00 chiều,…) gặp trường hợp này rất khó khẳng định giờ sinh âm lịch. Và đa phần khách hàng phải đóng thêm phí Xác định giờ sinh để chuyên gia tìm giờ sinh trước khi chấm tử vi.

Hoặc là có khách hàng chỉ nghe cha mẹ nhớ lại mang máng là sinh khoảng mấy giờ gì đó, tức là giờ sinh không rõ ràng nên khi lập lá số là sẽ không dám chắc chắn rằng đó có phải là lá số của mình (khách hàng) hay không, nếu lập sai giờ sinh thì toàn bộ các tiêu chí thông tin trên lá số là của ai đó không đúng với các tiêu chí thông tin về vận số của người cần xem, không dùng được.

Nếu gặp trường hợp giờ sinh không rõ ràng thì nên cung cấp cho chúng tôi biết rõ (càng cụ thể càng tốt), những sự kiện chính đã xảy ra với mình như những may mắn hay rủi ro đã xảy ra năm nào, được khen thưởng, bị kỷ luật…kết hôn, ly hôn (nếu có) vào năm nào. Tuổi của người phối hôn, tuổi của hào con út (tính đến thời điểm hiện tại), hoàn cảnh kinh tế, công việc làm ăn của đương số trong những năm gần đây xem năm nào có sự kiện may mắn hay thuận lợi hay trở ngại gì để chúng tôi so sánh với giờ Sinh trước, hoặc sau đó xem lá số nào có nhiều điểm phù hợp với các thông tin cá nhân của đương số cung cấp thì làm dự đoán theo giờ sinh đó.

Nói chung khi đã tốn tiền để làm lá số tử vi thì ai cũng muốn nắm rõ được vận số của mình sẽ như thế nào qua các vận tốt-xấu mà có định hướng ứng phó cho phù hợp.

Chẳng hạn như với người Tiểu thương gặp vận tốt thì cố gắng đầu tư phát triển làm ăn để thu lợi, rơi vào bại vận thì thủ thường để tránh thất bại. Nhưng nếu sai giờ sinh thì có thể nhầm tưởng vận xấu thành tốt, và tốt thành xấu (do sai giờ sinh). Lỡ gặp vận xấu mà bỏ số lớn tiền bạc ra đầu tư kinh doanh để chuốc lấy thất bại thua lỗ nặng thì thật vô lý.

Trách nhiệm về hậu quả đầu tư sai lầm này không thuộc về dự đoán, nhưng người làm dự đoán có lương tâm không muốn có sự nhầm lẫn trong giờ sinh để khách hàng bị “tiền mất tật mang” như vậy.

Chúng tôi không có điều kiện làm dự đoán từ thiện (miễn phí), nhưng không phải cứ thấy khách hàng đã đóng phí là phải chấm tử vi, đúng hay sai giờ sinh mặc kệ được.

Khách hàng cũng Không nên tự khẳng định là sinh giờ X hay Y gì đó, vì các Tháng chuyển giờ âm lịch có khác nhau nên rất dễ nhầm lẫn giờ sinh.

Những ai sinh ở Miền Nam trước giải phóng ngày 30/4/1975 hoặc ở bất cứ nước nào, khi muốn chấm Tử Vi cần nói rõ nơi sinh để chuyển đổi thành giờ Bắc Kinh (hoặc giờ Hà Nội-giờ Hà Nội chênh với giờ Bắc Kinh 01 tiếng) ) để lấy lá số, hoặc là lấy Tứ trụ thì dự đoán mới chính xác.

Nếu sinh ở nước ngoài thì cần cho biết múi giờ GMT của nước đó, đặc biệt đối với nước MỸ thì có những Tiểu bang lại dùng múi giờ khác nhau và còn theo Mùa nữa, vậy nên cung cấp rõ cho chúng tôi biết để chuyển đổi thành giờ Hà Nội mới lấy lá số đúng được.


GIỜ KHẮC VIỆT NAM QUA NHIỀU BIẾN ĐỔI

Chúng ta biết từ lâu, giờ được quốc tế thừa nhận dựa theo kinh tuyến 0 là múi giờ (thời đại) khởi điểm GMT (Greenwich mean time = giờ quốc tế = giờ lấy kinh tuyến chạy ngang qua thành phố Greenwich nước Anh làm gốc). Quả đất dựa theo kinh tuyến, được chia làm 24 múi giờ.

Ở Việt Nam múi giờ quốc tế GMT+7. Với những chiếc đồng hồ do người phương Tây du nhập vào Việt Nam thế kỷ trước, đều theo cách tính ấy. Khi đồng hồ chỉ 7h00 là ở Việt Nam mặt trời đã mọc lên 1 sào (theo cách nói của người xưa).

Thời thuộc Pháp, Việt Nam vẫn giữ giờ quốc tế ấy (GMT+7). Bây giờ mặt trời vừa mọc tại Việt Nam, khoảng 6h00 giờ sáng. Khi Nhật xâm lược Đông Dương, bắt đầu có sự thay đổi 1 rồi 2 giờ trong ngày:

1. Kể từ khuya ngày 31 tháng 12 năm 1942 rạng ngày 1 tháng 1 năm 1943, giờ Việt Nam (đã dùng từ thời thuộc Pháp = GMT+7) phải kéo đồng hồ lên thêm 1 giờ. Vậy là GMT+8. Mặt trời vừa mọc là đã 7h00 giờ sáng. Giờ NGỌ (đứng bóng) không còn là 11h00 đến 13h00 giờ nữa, mà là từ 12h00 đến 14h00.

2. Kể từ khuya ngày 31 tháng 3 năm 1945 rạng ngày 1 tháng 4 năm 1945 lại tăng thêm 1 giờ nữa. Tức GMT+9. Mặt trời vừa mọc là đã 8 giờ, giờ NGỌ từ 13h00 đến 15h00.

Người ta biết Nhật cưỡng ép tăng 2 lần 2 giờ là để phù hợp với múi giờ của nước Nhật (GMT+9), quân lính Nhật sang Đông Dương khỏi phải điều chỉnh đồng hồ đang dùng.

3. Kể từ ngày 19 tháng 8 năm 1945, giờ Việt Nam trở lại như cũ (GMT+7).

4. Trước năm 1975, khi quân đội của Mỹ đổ bộ sang miền Nam Việt Nam, kể từ khuya ngày 31 tháng 12 năm 1959 rạng ngày 1 tháng 1 năm 1960, giờ của miền Nam Việt Nam bị kéo lên thêm 1 giờ. Tức GMT+8.

Mặt trời vừa lên đã là 7h00 giờ sáng. Giờ NGỌ là 12h00 đến 14h00. Mỹ làm thế là để phù hợp với đồng hồ chỉ giờ (gồm 12 số) tại nước Mỹ, cách Việt Nam 11 múi giờ. Khi được kéo lên thêm 1 giờ thì đồng hồ Việt Nam chỉ 8h00 thì khi đó ở Mỹ là 20h00, kim trên mặt đồng hồ ở Washington chỉ số 8. Tức ở miền Nam Việt Nam 8h00 giờ sáng (đã kéo thêm 1 giờ), là 8h00 giờ tối ở thủ đô Mỹ.

Vậy là ai sinh ở miền Nam Việt Nam kể từ sau 00h00 ngày 1/1/1960 thì phải lấy múi giờ GMT +8, tức là sớm hơn hiện nay 01 tiếng.

Vì vậy khi lấy lá số theo trình lập thì phải lùi lại 01 tiếng và phải tùy theo tháng âm lịch để lấy giờ sinh âmlịch cho chính xác, có nghĩa là khoa Tử Vi dùng ngày sinh của tháng âm lịch bình thường (không tính theotiết khí như khoa Tử Bình lập Tứ trụ), để lập cục an Sao trên lá số. Còn khi lập Tứ trụ thì phải căn cứ xem ngày sinh đó đang ở trong Tiết khí nào. Hai phương pháp xem độc lập nhưng có thể bổ sung các tiêu chí thông tin về vận số cho nhau. Nếu chỉ ứng dụng một phương pháp để xem thì không khai thác hết các tiêu chí thông tin tàng chứa trong Tứ trụ hoặc lá số.

5. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ ngày 1 tháng 5 năm 1975, giờ Việt Nam (Đông Dương) trở lại đúng GMT+7. (Ngày 13 tháng 6 năm 1975 có thông báo của chính phủ Việt Nam thống nhất cả nước dùng giờ Đông Dương theo múi giờ GMT+7; nhưng đã thay đổi giờ ngay sau ngày giải phóng).

Chú thích:
* Giải nghĩa giờ "không vong": giờ không vong tính theo Can Ngày. Ví dụ hôm nay ngày GIÁP DẦN, can GIÁP VÀ KỶ bị TRIỆT tại THÂN-DẬU. Vì vậy, 2 GIỜ Thân-Dậu gọi là giờ 'không vong'.

**Giờ Bắc Kinh: Theo kinh nghiệm của những nhà nghiên cứu Mệnh lý Trung Quốc, nhất là theo Thiệu Vĩ Hoa, người đang nổi tiếng không những ở Trung Quốc mà còn có uy tín trên lĩnh vực dự đoán Mệnh số của nhiều Quốc gia. Theo kinh nghiệm của ông Hoa thì đều phải chuyển đổi thành ra giờ Bắc Kinh, mới dự đoán chính xác. Ông Hoa đã thử nghiệm rất nhiều trường hợp, và nghiệm thấy đúng.
Các bác xem số cho người sinh trước năm 1975 cẩn thận về múi giờ !
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/8102/Tru ... i-gio.html
Cách tính năm nhuận
Năm 2004 là năm nhuận tính theo dương lịch và cả theo âm lịch. Theo dương lịch nhuận ngày, còn theo âm lịch thì nhuận tháng. Các nhà khoa học cho biết nếu hai số cuối của năm dương lịch chia hết cho 4 thì năm đó là năm nhuận.

vSV
Chuyển động của mặt trăng và mặt trời là cơ sở để tính âm lịch và dương lịch.
Lịch tính thời gian theo mặt trời gọi là dương lịch. Trái đất quay trọn một vòng xung quanh mặt trời mất 365 ngày và 6 giờ. Năm dương lịch có số nguyên là 365 ngày. Như vậy, một năm dương lịchcòn thừa 6 giờ và 4 năm dồn lại thừa 24 giờ, bằng một ngày. Do vậy, cứ 4 năm sẽ có một năm 366 ngày, gọi là năm nhuận. Nhuận ngày dương lịch được tính vào tháng 2. Do đó, tháng 2 năm 2004 có 29 ngày.

Lịch tính thời gian theo mặt trăng gọi là âm lịch. Tháng mặt trăng trung bình có 29,5 ngày. Một năm âm lịch có 354 ngày, ngắn hơn năm dương lịch 11 ngày. Cứ 3 năm lại ngắn hơn 33 ngày (hơn 1 tháng).

Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịchngười ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận.

Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.

Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận chỉ việc lấy năm dương lịch tương ứng với năm âm lịchchia cho 19, nếu số dư là một trong các số: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó có tháng nhuận.

Năm Giáp Thân 2004 này nhuận một tháng và tháng nhuận rơi vào tháng 2 (vì 2004 chia 19 còn dư 9). Trở lại năm Giáp Thân cách đây 60 năm (1944, chia cho 9, dư 6), cũng là năm nhuận và tháng nhuận rơi vào tháng 4.

Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịchkhông sai lệch nhau nhiều, không có hàm ý gì về thời tiết, khí hậu.

Theo Khoa Học và Đời Sống