Ngày nay, có một số nhà bác học Tây phương
khá đông đã biết khai thác nó, và biết dùng đến khoa
học giải thích nó. Một số người chúng ta đã “reo
mừng” vì kinh Dịch đã được Tây phương khoa học
chấp nhận và ca tụng. Họ có lý. Nhưng, theo tôi, giá
trị thật sự của kinh Dịch đâu phải chỉ ở những gì nó
đã được khoa học Tây phương hiện đại chứng nhận,
mà chính ở những gì mà khoa học hiện đại của Tây
phương bó tay không khai thác nổi: tôi muốn nói đến
giá trị huyền nhiệm thiêng liêng của nó nơi tâm linh
con người. Cái mà phần đông các khoa học gia Tây
phương hiện đại khai thác được chỉ dừng ở phần kinh
nhị hạ của nó mà thôi. Chỉ một số nhỏ, từ khoa
nguyên tử học đã mở rộng biên giới hữu hình và vô
hình, và có lẽ sau này, kinh Dịch sẽ được phương
pháp nghiên cứu khoa học Tây phương giúp cho nó có
một bộ mặt thiết thực và khoa học, dễ hiểu hơn cho tất
cả mọi người, Dịch sẽ không còn một bộ mặt huyền bí
như xưa nữa. Sự cộng tác chân thành giữa Đông-Tây
sau này là nơi đây.
Đọc dịch khó, như đã nói trên đây, vì Dịch chẳng
những chỉ có một nghĩa, mà còn nhiều nghĩa. Dịch là
biến mà cũng là bất biến. Hay nói một cách khác,
Dịch là động: động trong cái tịnh. Bởi vậy, Triệu-
Khang-Tiết mới bảo: “Từ chỗ biến mà biết được chỗ
bất biến, mới có thể bàn tới Dịch”. Thật vậy, Âm
Dương là căn bản của mọi cuộc biến động, nhưng Âm
Dương lại chẳng phải hai, tuy trong thực tế rõ ràng là
hai. Khó là chỗ đó. Âm là tịnh, Dương là động.
Nhưng “Âm trung hữu Dương căn”; Dương trung
hữu Âm căn”3, thì trong Tịnh có gốc Động, trong
Động có góc Tịnh. Bởi vậy, Lão-Tử mới khuyên ta dè
dặt: “Họa trung hữu Phúc, Phúc trung hữu Họa”. Luật
này có thể gọi là luật quan trọng nhất: luật “Phản
Phục”. Toàn thể bộ Dịch chỉ nói đi nói lại cái có cái
luật ấy mà thôi. Trong 64 quẻ, không quẻ nào không
có tàng ẩn luật Phản Phục. Thử lấy quẻ Phong
(Lôi- hỏa phong)
để làm một ví dụ điển hình. PhongHỏa Phong)
là nói về thời cực thịnh, vậy mà Thoán, Hào, Tượng
đều xấu là phần nhiều, lời răn đe lại cũng nhiều. Là vì
mầm họa thường núp trong phúc: phúc nhỏ, họa nhỏ;
phúc to, họa to. Lẽ trong thiên hạ, bất cứ trong trường
hợp nào, cá nhân hay toàn thể, hễ tịnh cực thì cái
triệu suy vong đã nằm sẵn nơi trong rồi. Cũng như
mặt trời lúc đứng bóng, thế nào cũng sắp xế; mặt
trăng lúc tròn đầy, thế nào cũng khuyết lần (nhựt
trung tắc trắc, nguyệt doanh tắc thực). Phong là thời
cực thịnh, vậy phải lo đến cái cơ suy sắp đến. Cho nên
gặp thời Phong, tuy đáng mừng mà cũng đáng lo.
Nhưng, đáng lo nhất là lúc cực thịnh, nghĩa là không
phải lo thịnh mà lo “quá thịnh”. Cũng như đắc ý là
thường, nhưng đáng lo nhất là lúc “quá đắc ý” 4. Hễ
được doanh (tràn đầy)thi phải lo hư (thiếu hụt) sắp
tới, gặp thời tiêu (mòn lần) là cũng nên hy vọng thời
tức (nở ra) sắp đến. Sự vật đều như thế, thì việc người
cũng chẳng khác hơn. Bốn chữ doanh hư tiêu tức tiếp
nói nhau như một Âm một Dương: “nhất Âm nhất
Dương chi vị Đạo”. Bốn chữ này, Thoán truyện chỉ có
nói ở quẻ Phong và quả Bác. Ở quẻ Bác đạo
người quân tử đang tiêu hư, nhưng mà đã có cái cơ
doanh tức cùng lúc ấy mà sinh ra. “Vật cùng tắc
biến” là luật căn bản của Dịch. Cho nên, ở trong tiêu
hư đừng sinh lònh chán nản. Thời Phong, là đến lúc
tức doanh nhưng mà cũng chính là lúc tiêu hư bắt
đầu sinh ra. Tóm lại, thời Bắc (tăm tối nhất) trong đó
đã ngầm chứa “tức doanh”; thời Phong (sáng sủa
nhất) bên trong cũng ngầm chứa “tiêu hư”. Đọc
Dịch, chỉ cần đọc đến các quẻ Thái, quẻ Bĩ, quẻ Bác,
quẻ Phục cũng đủ thấy rõ cái lẽ thịnh suy, trị loạn tuy
do lẽ trời mà cũng cốt ở nơi người. Toàn thể bộ Dịch
đều như thế: có Trời mà cũng có Ta. Trời đây, là luật
tự nhiên: “thiên nhơn tương ứng”.
Dịch lý, vì vậy có đủ kinh đủ quyền, có lúc
thường lúc biến… Thánh nhơn học Dịch, theo lời cũ
mà phát minh được nghĩa mới, nếu cứ bo bo theo sát
văn từ, câu nệ mà chẳng biến thông, không sinh được
ý gì mới cả, sẽ không bao giờ học Dịch nổi. Dịch là
nói về lẽ sống. Người câu nệ là kẻ đã chết: chết trong
quá khứ, chết trong khuôn khổ. “Nhất hồi niêm xuất,
nhất hồi xuân” (Mỗi lần nói ra, mỗi lần mới).
Viết tập sách này, tôi đã nghiên cứu rất nhiều
sách vở xưa cũng như nay, sách ngoại quốc cũng như
sách trong nước. Nhưng có nhiều chỗ, tôi không theo
sách lại theo ý riêng, có khi lại quên cả sách nữa để
tiêu hóa sách, nhưng bao giờ cũng cố giữ đúng theo
những nguyên tắc căn bản và truyền thống của Dịch.
Dĩ nhiên khi bác bỏ, bao giờ cũng nên lên lý do. Vì
mỗi nhà mỗi có sự giải thích theo sở kiến của mình.
Theo bản thống kê các sách bàn về Dịch từ đời Chu
đến đời Thanh đã có 158 bộ, 1.761 quyển… Đó chỉ là
ước lượng. Đọc được tất cả, ta phải điên đầu. Phải
lọc lại, và giữ lấy cái phần tinh hoa. Đọc sách mà tin
ở sách một cách mù quáng, thà đừng đọc sách còn
hơn.
Dịch là tương đối luận: Âm, tự nó đâu phải luôn
xấu: Dương, tự nó đâu phải luôn tốt. Tất xấu, kỳ thật
đều do hai chữ Thời và Vị mà ra. Cũng như không có
gì gọi là Thiện, cái gì gọi là Ác một cách tuyệt đối.
Tùy công dụng của nó, trật tự vũ trụ nhân sinh mà có
chia phần Thiện Ác. Phần căn bản của Dịch là ở điểm
này, mà cũng là điểm cực kỳ quan trọng, vì nó đánh
tan được cái thành kiến của nhị nguyên luận chấp
“có” hoặc chấp “không”, nói theo danh từ nhà Phật.
“Thời”, là thời gian; “Vị”, là không gian. Âm
tuy có tánh cách thấp kém, tiêu cực, còn Dương có
tánh cách cao quý, tích cực, nhưng trong 6 hào tượng
trưng 6 thời, nếu được “đắc vị”, “đương vị” thì tốt,
mà “thất vị” hay “bất đương vị” thì xấu. Toàn 64
quẻ, thánh nhơn luận về sự kiết hung đều căn cứ vào
hai chữ THỜI và VỊ mà định tốt xấu, chứ tự nó không
có cái gì tuyệt đối xấu, cũng không có gì tự nó luôn
luôn tốt. “Nói về cương nhu, mỗi thứ đều có chỗ thiện
và bất thiện của nó: lúc đương phải dùng cương, thì
lấy cương làm thiện. Lúc cần phải dùng nhu, thì lấy
nhu làm thiện. Chỉ có “trung” và “chánh” mới không
có chỗ bất thiện mà thôi. “Hán Văn”. (Cương nhu các
hữu thiện, bất thiện. Thời đương dụng cương, tắc dĩ
cương vi thiện dã. Thời đương dụng nhu, tắc dĩ nhu vi
thiện dã. Duy “trung” dữ “chánh” tắc vô hữu bất
thiện dã). Nhưng cái gọi là “chánh” không như cái
thiện của chữ “trung”, vì được “chánh” chưa ắt được
“trung” được “trung” thì không bao giờ không
“chánh”. Tỉ như, sáu hào đều được “đắc vị” vị tất
điều là tốt cả: “đắc vị” còn cần phải “đắc trung” .
Đạo lý trong thiên hạ tuy có nhiều việc, nếu cho là
“chánh” thì vẫn chánh, nhưng lại vì hoặc bất cập,
hoặc thái quá mà thành ra “bất trung”. Bởi “bất
trung” nên chở thành “bất chánh”. Ở quẻ Kiền bàn
đến cái đức của người quân tử gọi là “long đức” có
viết: “long đức nhi chánh trung giả dã” … Hán Văn
… nghĩa là đức của người quân tử (ví như con rồng)
nếu được “đắc trung” mới được gọi là “long đức”. Vì
vậy, Dịch thường để chung hai chữ “chánh trung”.
Vấn đề Âm Dương hay Thiện Ác của Dịch là một
vấn đề vô cùng quan trọng. Thiện đức mà dùng sai,
không đúng thời đúng chỗ, không còn thiện nữa. Hơn
nữa Thiện hay Ác như Dương hay Âm vẫn cần thiết
cho trật tự vũ trụ, đứng theo đạo Trời (thiên đạo).
“Thiện Ác giai thiên lý” (Hán Văn) như Trình-Minh-
Đạo đã nói: “Âm Dương đồng đẳng và bình đẳng.
Bọn hủ Nho không làm gì hiểu nổi. Nhà Đạo học Ấn
Độ Anrobindo Ghose, trong quyển Héraclite, có viết:
“Trong trật tự chung của đạo, mỗi sự vật đều theo
cương vị của mình trong guồng máy chung mà hành
động; tùy cương vị và để gìn giữ quân bình, sự gì việc
gì xảy ra đều tốt, hợp lý, và đẹp đẽ cả chính ngay
trong công việc nó thi hành những mạng lệnh tự nhiên
của Tạo hóa. Ngay như cuộc thế chiến, theo người
này thì cho là cuộc tàn bạo, dã nam, khả ố, thế mà đối
với người khác thì đây biết đâu là một việc hay vì nó
mở đầu cho một sự canh tân đầy triển vọng cho sự bế
tắc của xã hội ngày nay. Nhưng đó cũng chỉ là quan
niệm tương đối nhị nguyên đang đứng giữa cái Ác và
cái Thiện để lựa chọn một bên nào. Đối với Thiên lý
mà nhìn về mặt quát của Thiên cơ, mỗi một hành
động nào bất cứ Thiện hay Ác đều là lẽ Trời cả, nên
đều được xem là tốt đẹp và hợp lý, dĩ nhiên là đối với
TRỜI (Đạo), chứ không phải đối với trí óc con
người” 5. Cũng như “tất cả mọi cuộc đại biến tự nhiên
đều là những cần thiết của Tạo hóa để giữ quân
bình” 6. Có hiểu được cái tương đối luận đặc biệt này
của Dịch, ta mới có thể vào được một cách dễ dàng
hơn thuyết tương đối độc đáo của Trang Châu, một
thứ tương đối luậndùng để đi thẳng vào tuyệt đối
luận, chứ không phải thứ tương đối luận của nhị
nguyên7.
Phải thật hiểu rõ bốn chữ THỜI, VỊ, TRUNG,
CHÁNH thì đọc Dịch mới thông. Người quân tử
không dùng đúng thời, đặt không đúng chỗ, sẽ không
dùng được chỗ nào hết. Trái lại, kẻ tiểu nhân mà đặt
đúng chỗ, dùng đúng thời, tiểu nhơn vẫn đắc dụng.
Dịch không nói thị phi, Dịch chỉ nói về lẽ lợi hại, kiết
hung mà thôi. Là vì Dịch chú trọng đến tự nhiên, gần
với Lão-Trang hơn gần với tư tưởng Nho gia chú
trọng nhiều về mối tương giao giữa người và người.
Quẻ Tiểu Quá, lời Thoán có câu: “Nhu đắc
trung, thị dĩ tiểu sự kiết dã. Cương thất vị nhi bất
trung, thị dĩ bất khả đại sự dã”. Trong quẻ Tiểu quá,
hào 2 và 5 là hai hào đắc trung. Nhưng cả hai đều là
hào Âm. Theo thông lệ, Âm là hàng tiểu nhơn. Dù Âm
nhu (tiểu) mà đắc trung, thì làm việc nhỏ được thành
công. Trái lại, làm việc lớn phải có tài (dương) và
Dương có đắc vị mới làm được việc. Nhưng ở đây, hai
hào Dương đều “thất vị” cả, lại chẳng được “đắc
trung”, làm sao đảm đương việc lớn cho nổi?
Vì sự quan trọng của chữ Thời trong kinh Dịch,
nên mới có câu: “Chu Dịch nhứt bộ thơ, khả nhất
ngôn nhi tế chi, viết THỜI”. Toàn bộ Chu Dịch, có
thể tóm có một lời, là chữ THỜI mà thôi.
Dù có đến 64 quẻ, chỉ có một cơ một ngẫu mà
thôi. Nhưng vì hai chữ Thời và Vị không đồng nhau
mới có cái biến vô cùng của sự vật. Con người cũng
vật, chỉ có một động một tịnh, nhưng vì Thời và Vị
không đồng nhau mới sinh ra vô số đạo lý khác nhau.
Sở dĩ gọi là dịch, chính vì thế. (Hán Văn)
Trước khi đọc Dịch cần có một luồng mắt thông
quan, nắm được một số nguyên lý căn bản thì đọc
Dịch mới có chỗ hứng thú và thụ dụng. Tuy sau đây,
tôi chỉ trình bày một cách sơ lược, nhưng có thể tạm
gọi là vừa đủ cho các bạn mới bắt đầu khỏi bị hoang
mang trước một rừng tư tưởng đầy mâu thuẫn, nhưng
là những thứ tư tưởng bao trùm mà Tây phương ngày
nay gọi là “pensée planétaire”, chứ không phải một
thứ tư tưởng duy lý phiến diện và một chiều của Tây
phương lý trí.
Triết học kinh Dịch là một thứ triết lý vô cùng
hết sức thực dụng, và ngay trong công việc bốc phệ
cũng đều là cơ hội để nhắc nhở con người cái luật
phản phục, tức là cái đạo “tri tiến thoái, tồn vong nhi
bất thất kỳ chánh” của bậc thánh nhân tinh thông
Dịch lý. Dù là được quẻ tốt hay xấu, dù là hỏi đến quẻ
hay không hỏi đến quẻ, dù chỉ đọc Dịch trong lúc
thanh nhàn nghiên cứu, thì quẻ nào cũng luôn luôn
chỉ nói lên cho các bạn cái luật “phản phục, tiêu
trưởng”, nhắc ta câu “phúc hề họa chi sở phục, họa
hề phúc chi sở ý”, chỉ đường mở nẻo cho cái đạo “tri
tiến thoái, tồn vong nhi bất thất kỳ chánh” như vừa
nói trên đây. Không một quẻ nào, dù Thái hay Bĩ, dù
Ích hay Tổn, dù Ký tế hay Vị tế đều có cả những lời
răn đe nhắn nhủ. Bất cứ một quẻ nào, hễ dưới xấu thì
trên tốt, dưới tốt thì trên xấu, không một quẻ nào hoàn
toàn tốt hay hoàn toàn xấu 9. Việc trong thiên hạ đại
để đều như thế cả. Dụng ý của thánh nhân thật là
thâm diệu vô cùng. Dù ở thời nào, đứng ở cương vị
nào, may hay rủi, không nên lạc quan mà cũng chẳng
nên bi quan. Dịch giúp ta luôn luôn giữ được tinh
thần điềm đạm.
*
1. Vật có cùng mới có biến, nhưng “tiệm biến”
chứ không “đột biến”, nghĩa là phải để ý đến luật
“tiêu trưởng”. Phàm Âm tiêu thì Dương trưởng,
Dương tiêu thì Âm trưởng. Thời Bĩ, âm trưởng dương
tiêu, tức là lúc tiểu nhân thạnh, quân tử suy, người
quân tử phải ẩn mới khỏi bị hại: “thiên địa bế, hiền
nhân ẩn”. Đó là đạo minh triết bảo thần của Dịch, há
riêng gì của nhóm Đạo gia.
Hào Dương sinh ở quẻ Phục, đến lúc cực thịnh
mới đến quẻ Kiền. Hào Âm sinh ở quẻ Cấu, đến lúc
cực thịnh mới đến quẻ Khôn, phải đâu việc một sớm
một chiều. “Tôi mà thí vua, con mà giết cha, nguyên
do đâu phải một sớm một chiều. Nó đã từ từ mà đến
như vậy!”. Cho nên việc gì cũng phải lo phòng bị
ngay lúc đầu: phòng loạn hơn trị loạn.
Luật “tiêu trưởng” do luật “phản phục”, cho
nên Dịch không chủ trương “tiến” mà nói “biến”.
“Biến hóa giả, tiến thoái chi tượng”. [Hán Văn]. (Biến
hóa, chỉ là cái tượng của sự tiến rồi thối.). Ngày đi,
người phải hòa đồng cùng nhịp sống của vũ trụ thiên
nhiên: “Nhơn pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên
pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”.
3. Vì luật “tiêu trưởng”, đọc Dịch cần lưu ý đến
hào Tứ, Ngũ, Lục của thượng quái, vì đó là lúc sự vật
bắt đầu sang qua giai đoạn “thịnh” cực: có cùng
(cực) mới có biến. Cái tốt đã bắt đầu tàng ẩn cái xấu,
cái phúc đã bắt đầu ôm ấp cái họa. Từ Thái qua Bĩ
cũng bắt đầu từ hào tứ. Cho nên, hào tứ quẻ Bĩ trở
lên gọi là “Bĩ cực”. “Bĩ cực” thì “Thái lai” là vậy.
Cần phải nhớ rằng: quẻ có quẻ nội (nội quái) và quẻ
ngoại (ngoại quái). Nội quái hay ngoại quái là để
biểu thị sự thành thịnh, suy hủy hay thành, trụ,
hoại, không) của mọi sự vật. Nội quái thì biểu thị sự
thành, thịnh thì ngoại quái biểu thị sự suy hủy và
trái nghịch lại.
Phép nhìn Bát-quái-đồ, phải bắt trong nhìn ra.
Phần cận với trung cung là phần nội (phần căn bản);
phần bên ngoài là phần ngoại, là phần ngọn: “nội vi
chủ, ngoại vi khách”. Ghi quẻ thì bắt dưới ghi lên;
đọc quẻ thì bắt trên đọc xuống. Về con số trong Dịch,
thì con số nhỏ là “thiếu” (nhỏ) thuộc về thời sinh, con
số lớn “tráng” thuộc về thời trưởng, con số lớn hơn
hết “lão” là thời cực thịnh. Cho nên con số 1 là
mạnh nhất ở đồ Tiên-thiên-Bát-quái, kế đến là số 3;
số 1 là Thiếu Dương, 3 là Thái Dương. Số 2 là
Thiếu Âm, 4 là Thái Âm. Số 6 là Lão Âm, số 9 là
Lão Dương.
Các quẻ vì vậy, nếu xấu ở phần đầu (nội quái),
thì tốt ở phần sau (ngoại quái); tốt ở phần nội quái thì
xấu ở phần ngoại quái. Bởi vậy, thắng chớ vội mừng,
mà đại thắng phải lo, vì như Héraclite đã nói: “những
đại thắng là những đại bại” (les plus grandes
victories sont les plus grandes défaites). Thái quá bao
giờ cũng nguy. Đó là bài học thứ ba của Dịch: “Thái
cương tắc chiết” (hết sức cứng thì gãy).
4. Dịch là tự nhiên, và dù là nhân vi cũng phải
làm đúng theo lẽ tự nhiên. Ngay sự chống lại tự nhiên
theo tự nhiên cũng là tự nhiên 10. Cho nên mới nói:
“Dịch dữ thiên địa chuẩn” 11, và “hoạch tiền nguyên
hữu Dịch”12. Nghĩa là Dịch không phải luật lệ của
con người chế tác, mà là những luật lệ tự nhiên của
Tạo hóa. Trước khi có Dịch, lý của Dịch đã nằm sẵn
trong sự vật rồi. Lão-Tử bảo: “Nhơn pháp Địa, Địa
pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”.
(Người theo Đất (Âm), Đất theo Trời (Dương), Trời
theo Đạo, Đạo theo Tự nhiên). Bởi vậy, muốn trở về
với Tự nhiên, với Đạo, phải theo sự biến hóa của Âm
Dương, phải “tẩy Tâm thổi tàng ư Mật”, phải ý thức
rõ cái gì thuộc về nhơn vi để mà sống với nó nhưng
không bị kẹt vào nó nữa, mới mong đi đến sự “phục
kỳ chân” mà sống huyền đồng với thiên nhiân tạo vật.
Đó là bài học thứ tư của Dịch.
*
Nhìn trật tự của các quẻ trong Chu Dịch, ta thấy
từ các quẻ Kiền Khôn là đầu não các quẻ, ta phải trải
tám quẻ (Truân, Mông, Nhụ, Sự, Tỵ, Tiểu súc và Lý)
mới đến quẻ Thái là hanh thông. Nhưng khi vừa qua
quẻ Thái, lại tiếp liền quẻ Bĩ, tức là bế tắc. Phải
chăng đây là một chân lý mà Dịch muốn chỉ cho ta
thấy: Thành rất khó mà bại vô cùng dễ dàng và mau
lẹ, như tảng đá to mà chàng Sisyphe phải luôn luôn
đẩy lên đỉnh núi cao để rồi khi gần tới đỉnh lại rớt lăn
trở về dưới vực: một cực hình khổ sai chung thân,
không phải riêng gì của chàng Sisyphe, mà là của
toàn thể loài người13.
Trước cái luật phản phục ấy, cái luật “vật cùng
tắc phản, vật cùng tắc biến”, cái luật thịnh suy, bĩ thái
ấy, thánh nhơn ngày xưa khuyên khéo ta: “Ôm giữ
chậu đầy, chi bằng thôi đi”. Dùng dao sắc bén, bén
không bền lâu. Vàng ngọc đầy nhà, khó mà giữ lâu.
Giàu sang mà kiêu, tự vời họa ưu. Nên việc lui thân
đó là đạo Trời”. Cũng như trong Hệ từ cũng có căn
dặn: “Quân tử an nhi bất vong nguy, tồn nhi bất vong
vong, trị nhi bất vong loạn. Thị dĩ thân an nhi quốc
gia khả bảo.”
6. Dịch chia làm hai phần: thượng kinh và hạ
kinh. Thượng kinh nói về những nguyên lý về Vũ trụ,
lấy hai quẻ đầu Kiềnvà Khôn, tượng trưng
hai khí Âm Dương bàn về lẽ Trời. Hạ kinh khởi bằng
hai quẻ Hàm và Hằng nói về đạo người, bắt đầu là
đạo vợ chồng. Nhưng, lúc giao tiếp hai phần Vũ trụ
và Nhân sinh, cuối phần thượng kinh, thì lại để hai
quẻ Khảm, Ly là tại sao? Như ta đã biết Kiền Khôn
là hai quẻ thuần Dương và thuần Âm, nó là Thể,
thuộc phần tiên thiên. Ly, Khảm là hai quẻ có cả Âm
Dương nằm trong tức là Dương trung hữu Âm căn,
Âm trung hữu Dương căn. Kiền Khôn chỉ là lưỡng
nghi, Ly Khảm mới là tứ tượng, mới có được cái
“dụng” của âm dương. Quẻ Lychứa hào âm
trong lòng, quẻ Khảmchứa hào dương trong
lòng, cho nên mới bảo hai quẻ ấy là hai quẻ “đắc
thiên địa chi trung”, cầm đầu cho các quẻ bàn về
nhân sự ở hạ kinh. Đến phần cuối cùng của hạ kinh,
tức là nói đến phần Chung kết của mọi sự vật, thì sao
lại để hai quẻ Ký tế và Vị tế? Là vì với hai quẻ này
mới nói lên rõ rệt công dụng của hai quẻ Khảm Ly
Thủy Hỏa Ký tếvà Hỏa Thủy Vị tế.
Nhưng tại sao khi chấm dứt kinh Dịch không để
quẻ Ký tế mà lại để quẻ Vị tế? Ký tế là “đã xong”; Vị
tế là “chưa xong”; cái gì “đã xong” thì là việc đã
đếng chỗ cùng tận, - mà Dịch là biến. nếu lại có sự
cùng tận thì sao có thể còn được gọi là Dịch nữa?
Dịch không có chỗ cùng. Không có chỗ cùng,
tức là chỗ nhà Thiền gọi là “ưng vô sở trụ” còn Trang
thì gọi là “vô hà hữu chi hương”. Dịch chung cuộc là
HƯ VÔ, là Thái cực. Bởi vậy, học Dịch phải tìm cái
“vô hạn” trong cái “hữu hạn”. Đó là bài học thứ sáu
của Dịch.
*
Học Dịch rất cần rất cần nghiên cứu về vấn đề
tiên-thiên của Hà đồ và Lạc thư. Đó là để học cái
đạo “nội thánh ngoại vương” rõ được cái thể và cái
dụng của Dịch. Hai phần này liên đới bổ túc nhau để
hoàn thành cái đạo xuất xử bất cứ ở trường hợp nào.
Hà đồ rất quan trọng trong cái đạo tu thân giải
thoát, Lạc thư rất quan trọng cho cái đạo xử thế
“khai vật thành vụ” và “tu, tề, trị, bình”.
Phần Lạc thư, vì vậy, chúng tôi sẽ dành nó riêng
trong một quyển sách sau này bàn về số học trong các
khoa huyền bí chiêm nghiệm, nhan đề Đạo giáo.
*
Đó là những điểm tạm xem là căn bản của Dịch,
có thể vừa đủ để đi vào kinh Dịch, mặc dù cũng còn
rất nhiều chi tiết không kém quan trọng. Sau này, khi
đi vào chi tiết của từng hào, từng quẻ sẽ lần lần nêu
ra trong quyển Chu Dịch Huyền Giải. Cái khó của
kinh Dịch, chẳng những ở những tư tưởng cô đọng vi
huyền, lại còn ở văn tự. Văn tự kinh Dịch là thứ văn
tự đời Ân Chu, cho nên nghĩa chữ không thể dùng
nghĩa chữ đời nay mà giải thích và hiểu hết. Nếu lại
không thông cổ tự, không rõ lễ chế của nền văn hóa
cổ đại Trung-Hoa cũng không làm sao giải thích nổi
kinh Dịch. Chúng tôi đã bỏ rất nhiều công phu trong
việc nghiên cứu, nhưng bao giờ cũng thấy còn rất
nhiều thiếu sót, mong ước sẽ được những bậc cao
minh chỉ giáo.
*
Các bạn không nên tin rằng, sau khi đọc xong
tập sách đại cương này, các bạn sẽ hiểu được tất cả
những khoa áp dụng Dịch lý. Biết được đại cương
những nguyên lý chung của kinh Dịch là một việc, mà
biết áp dụng nó trong các khoa lấy nó làm căn bản,
lại là một việc khác, không còn dễ dàng như có nhiều
người đã nghĩ. Đối với người Đông phương, “tri” mà
không “hành” chưa phải là “chân tri”. Triết học
Đông phương là một đạo sống.
Theo kinh nghiệm bản thân, chúng tôi nhận thấy
có hai cách nghiên cứu và học Dịch. Đây chỉ là vấn
đề kinh nghiệm bản thân, chưa ắt có lợi cho người
khác. Nhưng dù sao xin cứ thành thật trình bày, gọi là
góp thêm ý kiến. Hai cách học Dịch: một, khời từ
trong mà ra ngoài; hai, là bắt từ ngoài mà vào trong.
Cách thứ hai, tốn nhiều công nhưng thiết thực hơn.
Đành rằng đọc Dịch và học Dịch là phải đi ngay
vào Dịch, đi ngay vào Kinh mà không nên đi ngay vào
Truyện hay những sách bình giải về kinh Dịch, nhưng
đó là phần của các bậc thánh. Chúng ta, với đầu óc
tầm thường không thể theo đường lối ấy, Mặc dù sau
cùng cũng phải quên nó để hiểu nó. Chúng ta nên
theo phương pháp thứ hai là nghiên cứu nó song song
với một bộ phận áp dụng nó như chánh-trị, xã hội, tu
thân xử thế, tâm lý, luận lý, địa lý, thiên văn và ngay
cả những khoa mà “nhà khoa học dè đặt” ngày nay
gọi là “khoa học huyền bí” chỉ vì họ chưa hiểu rõ lý
do bí hiểm của nó. Hoặc, các bạn nên tạo trước cho
mình một hứng thú để cho sự nghiên cứu về Dịch
không còn là một cái học khô khan trừu tượng nữa.
Chúng tôi muốn nói: các bạn cứ đi ngay vào một
trong những môn học dùng Dịch làm nguyên tắc.
Thuở nhỏ chúng tôi rất thích đọc sách của Lão-Trang.
Rồi từ Lão-Trang chúng tôi lại đi lần vào Đạo giáo.
Nhưng rồi càng ngày chúng tôi càng thấy mình hoang
mang lạc lõng vì chúng tôi chưa hiểu gì cả về thuyết
Âm Dương: Âm Dương là căn bản của Đạo giáo.
Bấy giờ mới thấ y cái học của mình thiếu căn bản:
thiếu Dịch. Đó là vì chúng tôi đi từ ngoài vào trong,
tuy nhiên chính nhờ muốn hiểu Lão-Trang mà phải cố
công tri chí học Dịch không chán nãn. Học Dịch bấy
giờ không còn thấy khó nữa, nhờ sự hứng thú đọc
Lão-Trang nuôi được chí kiên nhẫn học cho kỳ được
Dịch kinh. Một sự may khác (không rõ là có phải là
may hay chẳng may), khi đang nghiên cứu Đạo giáo,
về những cái học chiêm nghiệm như Y, Bốc, Tinh,
Tướng và ma thuật, chúng tôi gặp được thầy hay.
Thầy chúng tôi, thực sự là cha nuôi của chúng tôi,
một giang Đạo sĩ khét tiếng miền Hậu Giang (Long
Xuyên) rất thông Y thuật. Y thuật Đông phương đối
với chúng tôi bấy giờ là một cái học hấp dẫn vô cùng.
Lần lần chúng tôi mới khám phá ra rằng thầy chúng
tôi cũng tinh thông cả tiên thuật. Bấy giờ mới rõ được
câu này trong nội kinh: “Y đạo thông Tiên đạo”.
Chúng tôi mới nhận thấy lời khuyên này của J. Lavier,
trong quyển “Les Sercrets du YI-KING” là đúng:
“Pháp văn” Phải có biết trước ít nhiều về Đạo giáo
mới có thể đọc, nhất là nghiên cứu và khai thác Dịch
kinh. Từ khi chúng tôi được bí truyền về những khoa
Nhâm, Cầm, Độn, Giáp chúng tôi học Dịch thấy càng
thêm hứng thứ lạ, và sự hiểu biết của chúng tôi cả hai
bên càng ngay càng thêm tăng tiến mau lẹ.
Có một vài bạn thân chế nhạo chúng tôi sao lại
học chi những khoa “huyền bí” mà họ đồng hóa với
sự “mê tín dị đoan”. Thú thật, hiện giờ chúng tôi
không còn mặc cảm gì nữa đối với các thứ học ấy.
Trước hết óc tò mò của chúng tôi quá mạnh: không
còn có một hiện tượng nào lạ xảy ra trước mắt mà
làm cho chúng tôi thản nhiên được. Và kế đó, chúng
tôi muốn thành thật với mình. Chúng tôi tin rằng:
người mà hay thắc mắc đặt nhiều câu hỏi quá, có thể
giống như người đần độn; nhưng mà kẻ suốt đời
không bao giờ biết ngạc nhiên và đặt câu hỏi, kẻ ấy
đành chịu làm kẻ đần độn suốt đời. Tôi cho lời nói
này của Albert Einstein rất xác đáng: “Pháp văn”
(Người mà không quen cảm thông với sự huyền bí, đã
mất cả cái quan năng biết ngạc nhiên, biết say đắm
trong niềm tôn kính trước những gì huyền bí, con
người ấy kể như một con người đã chết rồi.). Huống
chi với tình trạng khoa học tiến bộ mau lẹ gần như
vượt bực ngày nay, kẻ nào còn nhân danh khoa học để
miệt thị các khoa huyền bí là mê tín dị đoan, chính họ
mới là “lạc hậu” còn hơn những người mà họ “cười”
là “lạc hậu”!. Tôi cho rằng lời nhận xét này của bác
sĩ Jules Régnault rất đáng nghiền ngẫm: “Pháp
văn”(Khoa học ngày nay phải chăng là một thứ huyền
bí học bị lột bộ mặt huyền bí của nó?)
*
Dù sao, phần triết lý phải là phần chánh của
Dịch học, các môn học khác rồi sẽ đều là phù phiếm
hay phụ thuộc. Sau khi đã dùng các môn áp dụng
Dịch để chiêm nghiệm ý nghĩa huyền vi của Dịch, lâu
ngày chúng tôi đã bỏ lần các môn học phụ ấy, mà chỉ
giữ lại phần tinh túy là đạo tu nhân xử thế, tức là cái
đạo “nội thánh, ngoại vương” theo Trang hay theo
Lão.
Dịch là một bộ sách đa diện và vô tận
(inépuisable) sau một thời gian khá lâu chúng tôi đã
sống với nó trong từng hơi thở “nhật dụng, thường
hành”, thế mà vẫn thấy nó vời vợi như non cao: qua
được đỉnh này lại thấy hiện ra sừng sửng trước mặt
trùng trùng nhiều đỉnh khác… Phải có “sống” nhiều,
đọc Dịch mới thấy thú. Lâm-Ngữ-Đường nói: Khổng-
Tử dặn: năm mươi tuổi có thể đọc được kinh Dịch,
tức là muốn nói, bốn mươi lăm tuổi cũng còn chưa thể
đọc được kinh Dịch”. Phan-Sào-Nam về già mới
nghiền nổi Dịch kinh.
Lão-Tử bảo rất đúng: “Thệ viết viễn, viễn viết
phản”[Hán Văn] Tràn khắp là đi xa, đi xa là trở về.
Cho nên học Dịch mà tán ra xa, thì xa mãi không bao
giờ hết, càng ngày càng thêm phức tạp, có khi rồi lại
quên gốc vì quá mãi miết theo cái học trục vật. Cần
phải biết đủ mà dừng lại (…Hán Văn… tri túc tri chỉ),
để mà trở về. Đó là cứu cánh mục đích của những
người học Đạo. Phần này chúng tôi đã trình trong
quyển “Tinh hoa Đạo học Đông phương”. Biết đến
cái “đạo đi về”, nên Dịch mới gọi là Dị (dễ). Thực
vậy, Dịch rất đơn giản, rất dễ dàng. Chỉ gồm trong
một cái đồ, gọi là đồ Thái cực: một cái hình tròn với
hai nghi đen trắng ôm ngoàm vào nhau một cách
đồng đều, tượng trưng luật quân bình. Thật là tài tình!
Xem đầy đủ thì mời các bạn vào đây nhé !
để làm một ví dụ điển hình. PhongHỏa Phong)
là nói về thời cực thịnh, vậy mà Thoán, Hào, Tượng
đều xấu là phần nhiều, lời răn đe lại cũng nhiều. Là vì
mầm họa thường núp trong phúc: phúc nhỏ, họa nhỏ;
phúc to, họa to. Lẽ trong thiên hạ, bất cứ trong trường
hợp nào, cá nhân hay toàn thể, hễ tịnh cực thì cái
triệu suy vong đã nằm sẵn nơi trong rồi. Cũng như
mặt trời lúc đứng bóng, thế nào cũng sắp xế; mặt
trăng lúc tròn đầy, thế nào cũng khuyết lần (nhựt
trung tắc trắc, nguyệt doanh tắc thực). Phong là thời
cực thịnh, vậy phải lo đến cái cơ suy sắp đến. Cho nên
gặp thời Phong, tuy đáng mừng mà cũng đáng lo.
Nhưng, đáng lo nhất là lúc cực thịnh, nghĩa là không
phải lo thịnh mà lo “quá thịnh”. Cũng như đắc ý là
thường, nhưng đáng lo nhất là lúc “quá đắc ý” 4. Hễ
được doanh (tràn đầy)thi phải lo hư (thiếu hụt) sắp
tới, gặp thời tiêu (mòn lần) là cũng nên hy vọng thời
tức (nở ra) sắp đến. Sự vật đều như thế, thì việc người
cũng chẳng khác hơn. Bốn chữ doanh hư tiêu tức tiếp
nói nhau như một Âm một Dương: “nhất Âm nhất
Dương chi vị Đạo”. Bốn chữ này, Thoán truyện chỉ có
nói ở quẻ Phong và quả Bác. Ở quẻ Bác đạo
người quân tử đang tiêu hư, nhưng mà đã có cái cơ
doanh tức cùng lúc ấy mà sinh ra. “Vật cùng tắc
biến” là luật căn bản của Dịch. Cho nên, ở trong tiêu
hư đừng sinh lònh chán nản. Thời Phong, là đến lúc
tức doanh nhưng mà cũng chính là lúc tiêu hư bắt
đầu sinh ra. Tóm lại, thời Bắc (tăm tối nhất) trong đó
đã ngầm chứa “tức doanh”; thời Phong (sáng sủa
nhất) bên trong cũng ngầm chứa “tiêu hư”. Đọc
Dịch, chỉ cần đọc đến các quẻ Thái, quẻ Bĩ, quẻ Bác,
quẻ Phục cũng đủ thấy rõ cái lẽ thịnh suy, trị loạn tuy
do lẽ trời mà cũng cốt ở nơi người. Toàn thể bộ Dịch
đều như thế: có Trời mà cũng có Ta. Trời đây, là luật
tự nhiên: “thiên nhơn tương ứng”.
Dịch lý, vì vậy có đủ kinh đủ quyền, có lúc
thường lúc biến… Thánh nhơn học Dịch, theo lời cũ
mà phát minh được nghĩa mới, nếu cứ bo bo theo sát
văn từ, câu nệ mà chẳng biến thông, không sinh được
ý gì mới cả, sẽ không bao giờ học Dịch nổi. Dịch là
nói về lẽ sống. Người câu nệ là kẻ đã chết: chết trong
quá khứ, chết trong khuôn khổ. “Nhất hồi niêm xuất,
nhất hồi xuân” (Mỗi lần nói ra, mỗi lần mới).
Viết tập sách này, tôi đã nghiên cứu rất nhiều
sách vở xưa cũng như nay, sách ngoại quốc cũng như
sách trong nước. Nhưng có nhiều chỗ, tôi không theo
sách lại theo ý riêng, có khi lại quên cả sách nữa để
tiêu hóa sách, nhưng bao giờ cũng cố giữ đúng theo
những nguyên tắc căn bản và truyền thống của Dịch.
Dĩ nhiên khi bác bỏ, bao giờ cũng nên lên lý do. Vì
mỗi nhà mỗi có sự giải thích theo sở kiến của mình.
Theo bản thống kê các sách bàn về Dịch từ đời Chu
đến đời Thanh đã có 158 bộ, 1.761 quyển… Đó chỉ là
ước lượng. Đọc được tất cả, ta phải điên đầu. Phải
lọc lại, và giữ lấy cái phần tinh hoa. Đọc sách mà tin
ở sách một cách mù quáng, thà đừng đọc sách còn
hơn.
Dịch là tương đối luận: Âm, tự nó đâu phải luôn
xấu: Dương, tự nó đâu phải luôn tốt. Tất xấu, kỳ thật
đều do hai chữ Thời và Vị mà ra. Cũng như không có
gì gọi là Thiện, cái gì gọi là Ác một cách tuyệt đối.
Tùy công dụng của nó, trật tự vũ trụ nhân sinh mà có
chia phần Thiện Ác. Phần căn bản của Dịch là ở điểm
này, mà cũng là điểm cực kỳ quan trọng, vì nó đánh
tan được cái thành kiến của nhị nguyên luận chấp
“có” hoặc chấp “không”, nói theo danh từ nhà Phật.
“Thời”, là thời gian; “Vị”, là không gian. Âm
tuy có tánh cách thấp kém, tiêu cực, còn Dương có
tánh cách cao quý, tích cực, nhưng trong 6 hào tượng
trưng 6 thời, nếu được “đắc vị”, “đương vị” thì tốt,
mà “thất vị” hay “bất đương vị” thì xấu. Toàn 64
quẻ, thánh nhơn luận về sự kiết hung đều căn cứ vào
hai chữ THỜI và VỊ mà định tốt xấu, chứ tự nó không
có cái gì tuyệt đối xấu, cũng không có gì tự nó luôn
luôn tốt. “Nói về cương nhu, mỗi thứ đều có chỗ thiện
và bất thiện của nó: lúc đương phải dùng cương, thì
lấy cương làm thiện. Lúc cần phải dùng nhu, thì lấy
nhu làm thiện. Chỉ có “trung” và “chánh” mới không
có chỗ bất thiện mà thôi. “Hán Văn”. (Cương nhu các
hữu thiện, bất thiện. Thời đương dụng cương, tắc dĩ
cương vi thiện dã. Thời đương dụng nhu, tắc dĩ nhu vi
thiện dã. Duy “trung” dữ “chánh” tắc vô hữu bất
thiện dã). Nhưng cái gọi là “chánh” không như cái
thiện của chữ “trung”, vì được “chánh” chưa ắt được
“trung” được “trung” thì không bao giờ không
“chánh”. Tỉ như, sáu hào đều được “đắc vị” vị tất
điều là tốt cả: “đắc vị” còn cần phải “đắc trung” .
Đạo lý trong thiên hạ tuy có nhiều việc, nếu cho là
“chánh” thì vẫn chánh, nhưng lại vì hoặc bất cập,
hoặc thái quá mà thành ra “bất trung”. Bởi “bất
trung” nên chở thành “bất chánh”. Ở quẻ Kiền bàn
đến cái đức của người quân tử gọi là “long đức” có
viết: “long đức nhi chánh trung giả dã” … Hán Văn
… nghĩa là đức của người quân tử (ví như con rồng)
nếu được “đắc trung” mới được gọi là “long đức”. Vì
vậy, Dịch thường để chung hai chữ “chánh trung”.
Vấn đề Âm Dương hay Thiện Ác của Dịch là một
vấn đề vô cùng quan trọng. Thiện đức mà dùng sai,
không đúng thời đúng chỗ, không còn thiện nữa. Hơn
nữa Thiện hay Ác như Dương hay Âm vẫn cần thiết
cho trật tự vũ trụ, đứng theo đạo Trời (thiên đạo).
“Thiện Ác giai thiên lý” (Hán Văn) như Trình-Minh-
Đạo đã nói: “Âm Dương đồng đẳng và bình đẳng.
Bọn hủ Nho không làm gì hiểu nổi. Nhà Đạo học Ấn
Độ Anrobindo Ghose, trong quyển Héraclite, có viết:
“Trong trật tự chung của đạo, mỗi sự vật đều theo
cương vị của mình trong guồng máy chung mà hành
động; tùy cương vị và để gìn giữ quân bình, sự gì việc
gì xảy ra đều tốt, hợp lý, và đẹp đẽ cả chính ngay
trong công việc nó thi hành những mạng lệnh tự nhiên
của Tạo hóa. Ngay như cuộc thế chiến, theo người
này thì cho là cuộc tàn bạo, dã nam, khả ố, thế mà đối
với người khác thì đây biết đâu là một việc hay vì nó
mở đầu cho một sự canh tân đầy triển vọng cho sự bế
tắc của xã hội ngày nay. Nhưng đó cũng chỉ là quan
niệm tương đối nhị nguyên đang đứng giữa cái Ác và
cái Thiện để lựa chọn một bên nào. Đối với Thiên lý
mà nhìn về mặt quát của Thiên cơ, mỗi một hành
động nào bất cứ Thiện hay Ác đều là lẽ Trời cả, nên
đều được xem là tốt đẹp và hợp lý, dĩ nhiên là đối với
TRỜI (Đạo), chứ không phải đối với trí óc con
người” 5. Cũng như “tất cả mọi cuộc đại biến tự nhiên
đều là những cần thiết của Tạo hóa để giữ quân
bình” 6. Có hiểu được cái tương đối luận đặc biệt này
của Dịch, ta mới có thể vào được một cách dễ dàng
hơn thuyết tương đối độc đáo của Trang Châu, một
thứ tương đối luậndùng để đi thẳng vào tuyệt đối
luận, chứ không phải thứ tương đối luận của nhị
nguyên7.
Phải thật hiểu rõ bốn chữ THỜI, VỊ, TRUNG,
CHÁNH thì đọc Dịch mới thông. Người quân tử
không dùng đúng thời, đặt không đúng chỗ, sẽ không
dùng được chỗ nào hết. Trái lại, kẻ tiểu nhân mà đặt
đúng chỗ, dùng đúng thời, tiểu nhơn vẫn đắc dụng.
Dịch không nói thị phi, Dịch chỉ nói về lẽ lợi hại, kiết
hung mà thôi. Là vì Dịch chú trọng đến tự nhiên, gần
với Lão-Trang hơn gần với tư tưởng Nho gia chú
trọng nhiều về mối tương giao giữa người và người.
Quẻ Tiểu Quá, lời Thoán có câu: “Nhu đắc
trung, thị dĩ tiểu sự kiết dã. Cương thất vị nhi bất
trung, thị dĩ bất khả đại sự dã”. Trong quẻ Tiểu quá,
hào 2 và 5 là hai hào đắc trung. Nhưng cả hai đều là
hào Âm. Theo thông lệ, Âm là hàng tiểu nhơn. Dù Âm
nhu (tiểu) mà đắc trung, thì làm việc nhỏ được thành
công. Trái lại, làm việc lớn phải có tài (dương) và
Dương có đắc vị mới làm được việc. Nhưng ở đây, hai
hào Dương đều “thất vị” cả, lại chẳng được “đắc
trung”, làm sao đảm đương việc lớn cho nổi?
Vì sự quan trọng của chữ Thời trong kinh Dịch,
nên mới có câu: “Chu Dịch nhứt bộ thơ, khả nhất
ngôn nhi tế chi, viết THỜI”. Toàn bộ Chu Dịch, có
thể tóm có một lời, là chữ THỜI mà thôi.
Dù có đến 64 quẻ, chỉ có một cơ một ngẫu mà
thôi. Nhưng vì hai chữ Thời và Vị không đồng nhau
mới có cái biến vô cùng của sự vật. Con người cũng
vật, chỉ có một động một tịnh, nhưng vì Thời và Vị
không đồng nhau mới sinh ra vô số đạo lý khác nhau.
Sở dĩ gọi là dịch, chính vì thế. (Hán Văn)
Trước khi đọc Dịch cần có một luồng mắt thông
quan, nắm được một số nguyên lý căn bản thì đọc
Dịch mới có chỗ hứng thú và thụ dụng. Tuy sau đây,
tôi chỉ trình bày một cách sơ lược, nhưng có thể tạm
gọi là vừa đủ cho các bạn mới bắt đầu khỏi bị hoang
mang trước một rừng tư tưởng đầy mâu thuẫn, nhưng
là những thứ tư tưởng bao trùm mà Tây phương ngày
nay gọi là “pensée planétaire”, chứ không phải một
thứ tư tưởng duy lý phiến diện và một chiều của Tây
phương lý trí.
Triết học kinh Dịch là một thứ triết lý vô cùng
hết sức thực dụng, và ngay trong công việc bốc phệ
cũng đều là cơ hội để nhắc nhở con người cái luật
phản phục, tức là cái đạo “tri tiến thoái, tồn vong nhi
bất thất kỳ chánh” của bậc thánh nhân tinh thông
Dịch lý. Dù là được quẻ tốt hay xấu, dù là hỏi đến quẻ
hay không hỏi đến quẻ, dù chỉ đọc Dịch trong lúc
thanh nhàn nghiên cứu, thì quẻ nào cũng luôn luôn
chỉ nói lên cho các bạn cái luật “phản phục, tiêu
trưởng”, nhắc ta câu “phúc hề họa chi sở phục, họa
hề phúc chi sở ý”, chỉ đường mở nẻo cho cái đạo “tri
tiến thoái, tồn vong nhi bất thất kỳ chánh” như vừa
nói trên đây. Không một quẻ nào, dù Thái hay Bĩ, dù
Ích hay Tổn, dù Ký tế hay Vị tế đều có cả những lời
răn đe nhắn nhủ. Bất cứ một quẻ nào, hễ dưới xấu thì
trên tốt, dưới tốt thì trên xấu, không một quẻ nào hoàn
toàn tốt hay hoàn toàn xấu 9. Việc trong thiên hạ đại
để đều như thế cả. Dụng ý của thánh nhân thật là
thâm diệu vô cùng. Dù ở thời nào, đứng ở cương vị
nào, may hay rủi, không nên lạc quan mà cũng chẳng
nên bi quan. Dịch giúp ta luôn luôn giữ được tinh
thần điềm đạm.
*
1. Vật có cùng mới có biến, nhưng “tiệm biến”
chứ không “đột biến”, nghĩa là phải để ý đến luật
“tiêu trưởng”. Phàm Âm tiêu thì Dương trưởng,
Dương tiêu thì Âm trưởng. Thời Bĩ, âm trưởng dương
tiêu, tức là lúc tiểu nhân thạnh, quân tử suy, người
quân tử phải ẩn mới khỏi bị hại: “thiên địa bế, hiền
nhân ẩn”. Đó là đạo minh triết bảo thần của Dịch, há
riêng gì của nhóm Đạo gia.
Hào Dương sinh ở quẻ Phục, đến lúc cực thịnh
mới đến quẻ Kiền. Hào Âm sinh ở quẻ Cấu, đến lúc
cực thịnh mới đến quẻ Khôn, phải đâu việc một sớm
một chiều. “Tôi mà thí vua, con mà giết cha, nguyên
do đâu phải một sớm một chiều. Nó đã từ từ mà đến
như vậy!”. Cho nên việc gì cũng phải lo phòng bị
ngay lúc đầu: phòng loạn hơn trị loạn.
Luật “tiêu trưởng” do luật “phản phục”, cho
nên Dịch không chủ trương “tiến” mà nói “biến”.
“Biến hóa giả, tiến thoái chi tượng”. [Hán Văn]. (Biến
hóa, chỉ là cái tượng của sự tiến rồi thối.). Ngày đi,
người phải hòa đồng cùng nhịp sống của vũ trụ thiên
nhiên: “Nhơn pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên
pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”.
3. Vì luật “tiêu trưởng”, đọc Dịch cần lưu ý đến
hào Tứ, Ngũ, Lục của thượng quái, vì đó là lúc sự vật
bắt đầu sang qua giai đoạn “thịnh” cực: có cùng
(cực) mới có biến. Cái tốt đã bắt đầu tàng ẩn cái xấu,
cái phúc đã bắt đầu ôm ấp cái họa. Từ Thái qua Bĩ
cũng bắt đầu từ hào tứ. Cho nên, hào tứ quẻ Bĩ trở
lên gọi là “Bĩ cực”. “Bĩ cực” thì “Thái lai” là vậy.
Cần phải nhớ rằng: quẻ có quẻ nội (nội quái) và quẻ
ngoại (ngoại quái). Nội quái hay ngoại quái là để
biểu thị sự thành thịnh, suy hủy hay thành, trụ,
hoại, không) của mọi sự vật. Nội quái thì biểu thị sự
thành, thịnh thì ngoại quái biểu thị sự suy hủy và
trái nghịch lại.
Phép nhìn Bát-quái-đồ, phải bắt trong nhìn ra.
Phần cận với trung cung là phần nội (phần căn bản);
phần bên ngoài là phần ngoại, là phần ngọn: “nội vi
chủ, ngoại vi khách”. Ghi quẻ thì bắt dưới ghi lên;
đọc quẻ thì bắt trên đọc xuống. Về con số trong Dịch,
thì con số nhỏ là “thiếu” (nhỏ) thuộc về thời sinh, con
số lớn “tráng” thuộc về thời trưởng, con số lớn hơn
hết “lão” là thời cực thịnh. Cho nên con số 1 là
mạnh nhất ở đồ Tiên-thiên-Bát-quái, kế đến là số 3;
số 1 là Thiếu Dương, 3 là Thái Dương. Số 2 là
Thiếu Âm, 4 là Thái Âm. Số 6 là Lão Âm, số 9 là
Lão Dương.
Các quẻ vì vậy, nếu xấu ở phần đầu (nội quái),
thì tốt ở phần sau (ngoại quái); tốt ở phần nội quái thì
xấu ở phần ngoại quái. Bởi vậy, thắng chớ vội mừng,
mà đại thắng phải lo, vì như Héraclite đã nói: “những
đại thắng là những đại bại” (les plus grandes
victories sont les plus grandes défaites). Thái quá bao
giờ cũng nguy. Đó là bài học thứ ba của Dịch: “Thái
cương tắc chiết” (hết sức cứng thì gãy).
4. Dịch là tự nhiên, và dù là nhân vi cũng phải
làm đúng theo lẽ tự nhiên. Ngay sự chống lại tự nhiên
theo tự nhiên cũng là tự nhiên 10. Cho nên mới nói:
“Dịch dữ thiên địa chuẩn” 11, và “hoạch tiền nguyên
hữu Dịch”12. Nghĩa là Dịch không phải luật lệ của
con người chế tác, mà là những luật lệ tự nhiên của
Tạo hóa. Trước khi có Dịch, lý của Dịch đã nằm sẵn
trong sự vật rồi. Lão-Tử bảo: “Nhơn pháp Địa, Địa
pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”.
(Người theo Đất (Âm), Đất theo Trời (Dương), Trời
theo Đạo, Đạo theo Tự nhiên). Bởi vậy, muốn trở về
với Tự nhiên, với Đạo, phải theo sự biến hóa của Âm
Dương, phải “tẩy Tâm thổi tàng ư Mật”, phải ý thức
rõ cái gì thuộc về nhơn vi để mà sống với nó nhưng
không bị kẹt vào nó nữa, mới mong đi đến sự “phục
kỳ chân” mà sống huyền đồng với thiên nhiân tạo vật.
Đó là bài học thứ tư của Dịch.
*
Nhìn trật tự của các quẻ trong Chu Dịch, ta thấy
từ các quẻ Kiền Khôn là đầu não các quẻ, ta phải trải
tám quẻ (Truân, Mông, Nhụ, Sự, Tỵ, Tiểu súc và Lý)
mới đến quẻ Thái là hanh thông. Nhưng khi vừa qua
quẻ Thái, lại tiếp liền quẻ Bĩ, tức là bế tắc. Phải
chăng đây là một chân lý mà Dịch muốn chỉ cho ta
thấy: Thành rất khó mà bại vô cùng dễ dàng và mau
lẹ, như tảng đá to mà chàng Sisyphe phải luôn luôn
đẩy lên đỉnh núi cao để rồi khi gần tới đỉnh lại rớt lăn
trở về dưới vực: một cực hình khổ sai chung thân,
không phải riêng gì của chàng Sisyphe, mà là của
toàn thể loài người13.
Trước cái luật phản phục ấy, cái luật “vật cùng
tắc phản, vật cùng tắc biến”, cái luật thịnh suy, bĩ thái
ấy, thánh nhơn ngày xưa khuyên khéo ta: “Ôm giữ
chậu đầy, chi bằng thôi đi”. Dùng dao sắc bén, bén
không bền lâu. Vàng ngọc đầy nhà, khó mà giữ lâu.
Giàu sang mà kiêu, tự vời họa ưu. Nên việc lui thân
đó là đạo Trời”. Cũng như trong Hệ từ cũng có căn
dặn: “Quân tử an nhi bất vong nguy, tồn nhi bất vong
vong, trị nhi bất vong loạn. Thị dĩ thân an nhi quốc
gia khả bảo.”
6. Dịch chia làm hai phần: thượng kinh và hạ
kinh. Thượng kinh nói về những nguyên lý về Vũ trụ,
lấy hai quẻ đầu Kiềnvà Khôn, tượng trưng
hai khí Âm Dương bàn về lẽ Trời. Hạ kinh khởi bằng
hai quẻ Hàm và Hằng nói về đạo người, bắt đầu là
đạo vợ chồng. Nhưng, lúc giao tiếp hai phần Vũ trụ
và Nhân sinh, cuối phần thượng kinh, thì lại để hai
quẻ Khảm, Ly là tại sao? Như ta đã biết Kiền Khôn
là hai quẻ thuần Dương và thuần Âm, nó là Thể,
thuộc phần tiên thiên. Ly, Khảm là hai quẻ có cả Âm
Dương nằm trong tức là Dương trung hữu Âm căn,
Âm trung hữu Dương căn. Kiền Khôn chỉ là lưỡng
nghi, Ly Khảm mới là tứ tượng, mới có được cái
“dụng” của âm dương. Quẻ Lychứa hào âm
trong lòng, quẻ Khảmchứa hào dương trong
lòng, cho nên mới bảo hai quẻ ấy là hai quẻ “đắc
thiên địa chi trung”, cầm đầu cho các quẻ bàn về
nhân sự ở hạ kinh. Đến phần cuối cùng của hạ kinh,
tức là nói đến phần Chung kết của mọi sự vật, thì sao
lại để hai quẻ Ký tế và Vị tế? Là vì với hai quẻ này
mới nói lên rõ rệt công dụng của hai quẻ Khảm Ly
Thủy Hỏa Ký tếvà Hỏa Thủy Vị tế.
Nhưng tại sao khi chấm dứt kinh Dịch không để
quẻ Ký tế mà lại để quẻ Vị tế? Ký tế là “đã xong”; Vị
tế là “chưa xong”; cái gì “đã xong” thì là việc đã
đếng chỗ cùng tận, - mà Dịch là biến. nếu lại có sự
cùng tận thì sao có thể còn được gọi là Dịch nữa?
Dịch không có chỗ cùng. Không có chỗ cùng,
tức là chỗ nhà Thiền gọi là “ưng vô sở trụ” còn Trang
thì gọi là “vô hà hữu chi hương”. Dịch chung cuộc là
HƯ VÔ, là Thái cực. Bởi vậy, học Dịch phải tìm cái
“vô hạn” trong cái “hữu hạn”. Đó là bài học thứ sáu
của Dịch.
*
Học Dịch rất cần rất cần nghiên cứu về vấn đề
tiên-thiên của Hà đồ và Lạc thư. Đó là để học cái
đạo “nội thánh ngoại vương” rõ được cái thể và cái
dụng của Dịch. Hai phần này liên đới bổ túc nhau để
hoàn thành cái đạo xuất xử bất cứ ở trường hợp nào.
Hà đồ rất quan trọng trong cái đạo tu thân giải
thoát, Lạc thư rất quan trọng cho cái đạo xử thế
“khai vật thành vụ” và “tu, tề, trị, bình”.
Phần Lạc thư, vì vậy, chúng tôi sẽ dành nó riêng
trong một quyển sách sau này bàn về số học trong các
khoa huyền bí chiêm nghiệm, nhan đề Đạo giáo.
*
Đó là những điểm tạm xem là căn bản của Dịch,
có thể vừa đủ để đi vào kinh Dịch, mặc dù cũng còn
rất nhiều chi tiết không kém quan trọng. Sau này, khi
đi vào chi tiết của từng hào, từng quẻ sẽ lần lần nêu
ra trong quyển Chu Dịch Huyền Giải. Cái khó của
kinh Dịch, chẳng những ở những tư tưởng cô đọng vi
huyền, lại còn ở văn tự. Văn tự kinh Dịch là thứ văn
tự đời Ân Chu, cho nên nghĩa chữ không thể dùng
nghĩa chữ đời nay mà giải thích và hiểu hết. Nếu lại
không thông cổ tự, không rõ lễ chế của nền văn hóa
cổ đại Trung-Hoa cũng không làm sao giải thích nổi
kinh Dịch. Chúng tôi đã bỏ rất nhiều công phu trong
việc nghiên cứu, nhưng bao giờ cũng thấy còn rất
nhiều thiếu sót, mong ước sẽ được những bậc cao
minh chỉ giáo.
*
Các bạn không nên tin rằng, sau khi đọc xong
tập sách đại cương này, các bạn sẽ hiểu được tất cả
những khoa áp dụng Dịch lý. Biết được đại cương
những nguyên lý chung của kinh Dịch là một việc, mà
biết áp dụng nó trong các khoa lấy nó làm căn bản,
lại là một việc khác, không còn dễ dàng như có nhiều
người đã nghĩ. Đối với người Đông phương, “tri” mà
không “hành” chưa phải là “chân tri”. Triết học
Đông phương là một đạo sống.
Theo kinh nghiệm bản thân, chúng tôi nhận thấy
có hai cách nghiên cứu và học Dịch. Đây chỉ là vấn
đề kinh nghiệm bản thân, chưa ắt có lợi cho người
khác. Nhưng dù sao xin cứ thành thật trình bày, gọi là
góp thêm ý kiến. Hai cách học Dịch: một, khời từ
trong mà ra ngoài; hai, là bắt từ ngoài mà vào trong.
Cách thứ hai, tốn nhiều công nhưng thiết thực hơn.
Đành rằng đọc Dịch và học Dịch là phải đi ngay
vào Dịch, đi ngay vào Kinh mà không nên đi ngay vào
Truyện hay những sách bình giải về kinh Dịch, nhưng
đó là phần của các bậc thánh. Chúng ta, với đầu óc
tầm thường không thể theo đường lối ấy, Mặc dù sau
cùng cũng phải quên nó để hiểu nó. Chúng ta nên
theo phương pháp thứ hai là nghiên cứu nó song song
với một bộ phận áp dụng nó như chánh-trị, xã hội, tu
thân xử thế, tâm lý, luận lý, địa lý, thiên văn và ngay
cả những khoa mà “nhà khoa học dè đặt” ngày nay
gọi là “khoa học huyền bí” chỉ vì họ chưa hiểu rõ lý
do bí hiểm của nó. Hoặc, các bạn nên tạo trước cho
mình một hứng thú để cho sự nghiên cứu về Dịch
không còn là một cái học khô khan trừu tượng nữa.
Chúng tôi muốn nói: các bạn cứ đi ngay vào một
trong những môn học dùng Dịch làm nguyên tắc.
Thuở nhỏ chúng tôi rất thích đọc sách của Lão-Trang.
Rồi từ Lão-Trang chúng tôi lại đi lần vào Đạo giáo.
Nhưng rồi càng ngày chúng tôi càng thấy mình hoang
mang lạc lõng vì chúng tôi chưa hiểu gì cả về thuyết
Âm Dương: Âm Dương là căn bản của Đạo giáo.
Bấy giờ mới thấ y cái học của mình thiếu căn bản:
thiếu Dịch. Đó là vì chúng tôi đi từ ngoài vào trong,
tuy nhiên chính nhờ muốn hiểu Lão-Trang mà phải cố
công tri chí học Dịch không chán nãn. Học Dịch bấy
giờ không còn thấy khó nữa, nhờ sự hứng thú đọc
Lão-Trang nuôi được chí kiên nhẫn học cho kỳ được
Dịch kinh. Một sự may khác (không rõ là có phải là
may hay chẳng may), khi đang nghiên cứu Đạo giáo,
về những cái học chiêm nghiệm như Y, Bốc, Tinh,
Tướng và ma thuật, chúng tôi gặp được thầy hay.
Thầy chúng tôi, thực sự là cha nuôi của chúng tôi,
một giang Đạo sĩ khét tiếng miền Hậu Giang (Long
Xuyên) rất thông Y thuật. Y thuật Đông phương đối
với chúng tôi bấy giờ là một cái học hấp dẫn vô cùng.
Lần lần chúng tôi mới khám phá ra rằng thầy chúng
tôi cũng tinh thông cả tiên thuật. Bấy giờ mới rõ được
câu này trong nội kinh: “Y đạo thông Tiên đạo”.
Chúng tôi mới nhận thấy lời khuyên này của J. Lavier,
trong quyển “Les Sercrets du YI-KING” là đúng:
“Pháp văn” Phải có biết trước ít nhiều về Đạo giáo
mới có thể đọc, nhất là nghiên cứu và khai thác Dịch
kinh. Từ khi chúng tôi được bí truyền về những khoa
Nhâm, Cầm, Độn, Giáp chúng tôi học Dịch thấy càng
thêm hứng thứ lạ, và sự hiểu biết của chúng tôi cả hai
bên càng ngay càng thêm tăng tiến mau lẹ.
Có một vài bạn thân chế nhạo chúng tôi sao lại
học chi những khoa “huyền bí” mà họ đồng hóa với
sự “mê tín dị đoan”. Thú thật, hiện giờ chúng tôi
không còn mặc cảm gì nữa đối với các thứ học ấy.
Trước hết óc tò mò của chúng tôi quá mạnh: không
còn có một hiện tượng nào lạ xảy ra trước mắt mà
làm cho chúng tôi thản nhiên được. Và kế đó, chúng
tôi muốn thành thật với mình. Chúng tôi tin rằng:
người mà hay thắc mắc đặt nhiều câu hỏi quá, có thể
giống như người đần độn; nhưng mà kẻ suốt đời
không bao giờ biết ngạc nhiên và đặt câu hỏi, kẻ ấy
đành chịu làm kẻ đần độn suốt đời. Tôi cho lời nói
này của Albert Einstein rất xác đáng: “Pháp văn”
(Người mà không quen cảm thông với sự huyền bí, đã
mất cả cái quan năng biết ngạc nhiên, biết say đắm
trong niềm tôn kính trước những gì huyền bí, con
người ấy kể như một con người đã chết rồi.). Huống
chi với tình trạng khoa học tiến bộ mau lẹ gần như
vượt bực ngày nay, kẻ nào còn nhân danh khoa học để
miệt thị các khoa huyền bí là mê tín dị đoan, chính họ
mới là “lạc hậu” còn hơn những người mà họ “cười”
là “lạc hậu”!. Tôi cho rằng lời nhận xét này của bác
sĩ Jules Régnault rất đáng nghiền ngẫm: “Pháp
văn”(Khoa học ngày nay phải chăng là một thứ huyền
bí học bị lột bộ mặt huyền bí của nó?)
*
Dù sao, phần triết lý phải là phần chánh của
Dịch học, các môn học khác rồi sẽ đều là phù phiếm
hay phụ thuộc. Sau khi đã dùng các môn áp dụng
Dịch để chiêm nghiệm ý nghĩa huyền vi của Dịch, lâu
ngày chúng tôi đã bỏ lần các môn học phụ ấy, mà chỉ
giữ lại phần tinh túy là đạo tu nhân xử thế, tức là cái
đạo “nội thánh, ngoại vương” theo Trang hay theo
Lão.
Dịch là một bộ sách đa diện và vô tận
(inépuisable) sau một thời gian khá lâu chúng tôi đã
sống với nó trong từng hơi thở “nhật dụng, thường
hành”, thế mà vẫn thấy nó vời vợi như non cao: qua
được đỉnh này lại thấy hiện ra sừng sửng trước mặt
trùng trùng nhiều đỉnh khác… Phải có “sống” nhiều,
đọc Dịch mới thấy thú. Lâm-Ngữ-Đường nói: Khổng-
Tử dặn: năm mươi tuổi có thể đọc được kinh Dịch,
tức là muốn nói, bốn mươi lăm tuổi cũng còn chưa thể
đọc được kinh Dịch”. Phan-Sào-Nam về già mới
nghiền nổi Dịch kinh.
Lão-Tử bảo rất đúng: “Thệ viết viễn, viễn viết
phản”[Hán Văn] Tràn khắp là đi xa, đi xa là trở về.
Cho nên học Dịch mà tán ra xa, thì xa mãi không bao
giờ hết, càng ngày càng thêm phức tạp, có khi rồi lại
quên gốc vì quá mãi miết theo cái học trục vật. Cần
phải biết đủ mà dừng lại (…Hán Văn… tri túc tri chỉ),
để mà trở về. Đó là cứu cánh mục đích của những
người học Đạo. Phần này chúng tôi đã trình trong
quyển “Tinh hoa Đạo học Đông phương”. Biết đến
cái “đạo đi về”, nên Dịch mới gọi là Dị (dễ). Thực
vậy, Dịch rất đơn giản, rất dễ dàng. Chỉ gồm trong
một cái đồ, gọi là đồ Thái cực: một cái hình tròn với
hai nghi đen trắng ôm ngoàm vào nhau một cách
đồng đều, tượng trưng luật quân bình. Thật là tài tình!
Xem đầy đủ thì mời các bạn vào đây nhé !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét